Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 41
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Tập 81
“Kinh giả,
Phạn ngữ Tu Đa La. Trực dịch vi Tuyến,
ư dịch vi Khế Kinh. Khế giả, nhất giả
khế Lư. Lư giả, Thật Tế lư thể dă. Nhị giả
khế Cơ, Cơ giả, cơ nghi, chúng sinh căn cơ dă, kiêm chỉ thời
cơ, thời tiết nhân duyên dă. Cố khế Cơ giả,
thiết hợp chúng sanh thủy b́nh dữ thời
đại dă” (Kinh: Tiếng Phạn là Tu Đa La, dịch
sát nghĩa là Tuyến (sợi dây), dịch ư là Khế Kinh.
Khế: Một là Khế Lư, Lư là Thật Tế lư thể. Hai
là khế Cơ, Cơ là cơ nghi, tức căn cơ của
chúng sanh, đồng thời có nghĩa là thời cơ, thời
tiết nhân duyên. Do vậy, Khế Cơ là phù hợp tŕnh
độ của chúng sanh và thời đại). Chúng ta đọc tới chỗ này. Kinh là những
lư luận và phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật thuở
tại thế đă dùng để giáo hóa hết thảy
chúng sanh, nhưng thuở ấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
viết thành tài liệu giảng dạy. Vào thời cổ,
dường như đều giống như vậy.
Như tại Trung Quốc, Khổng Tử chỉ dùng ngôn
ngữ để dạy dỗ, không có sách giáo khoa, ngay cả
đại cương cũng chẳng có. Nh́n từ chỗ
này, suốt bốn mươi chín năm, đức Phật
giảng kinh, dạy học mỗi ngày chẳng gián đoạn,
sau khi Ngài viên tịch, các học tṛ dựa trên kư ức, dùng
văn tự ghi chép lời thầy đă dạy, lưu truyền
hậu thế; đấy là cội nguồn của kinh
điển Phật giáo. Kinh điển là những lời
“giảng nghĩa” trong lúc Phật giáo học thuở ấy,
nay chúng tôi dùng chữ “giảng nghĩa” cho mọi người
dễ hiểu! Phân lượng [kinh điển nhà Phật]
vô cùng to lớn, công tác kết tập gian truân do tôn giả A
Nan phức giảng (nhắc lại lời giảng). Trong
các đệ tử, cũng như trong số các đồng
học, ngài A Nan có trí nhớ tốt nhất. Sở trường
đặc biệt của Ngài là trí nhớ mạnh mẽ, gần
như nghe qua một lần sẽ vĩnh viễn chẳng
quên mất. Ngài có năng lực ấy, sức lư giải rất
mạnh. V́ thế, mọi người cùng đề cử
Ngài phức giảng, [tức là] nhắc lại những ǵ
Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong thuở ấy. Có năm
trăm vị đồng học, các đồng học
đều chứng quả A La Hán. Các vị A La Hán và Bồ
Tát ngồi ở dưới nghe, chứng minh lời Ngài
nói chẳng sai! Nếu có một vị nào bảo: “A
Chữ “Kinh” là chữ Hán, chúng ta dùng chữ
này để dịch chữ Ấn Độ. Tiếng Ấn
Độ [gọi Kinh] là Tu Đa La (Sūtra), Tu Đa La vốn có nghĩa
là Tuyến (sợi dây). V́ sao? Do trước đây, vào thời
kỳ đầu, chép kinh trên lá cây, tức lá cây Bối-đa-la.
Đương nhiên thuở ấy vẫn chưa có giấy,
nên dùng lá cây Bối-đa-la. Lá cây ấy rất bền, có
thể giữ rất nhiều năm chẳng bị hư
hoại. Lá cây được cắt thành từng miếng,
cắt thành miếng dài, hai bên đục lỗ. Mỗi bên
đục một lỗ, dùng dây xâu qua [để buộc lại
cho khỏi lạc mất]. [Các miếng lá] đă xỏ dây
được gọi là một quyển sách, khi dịch
[sát nghĩa chữ Sūtra] th́ dịch
theo cách như vậy. Quư vị đến Cố Cung sẽ
có thể thấy h́nh dạng nguyên thủy của kinh lá Bối.
Nếu dịch nghĩa th́ nên dùng ư nghĩa của chữ
Kinh trong tiếng Hán để dịch sẽ rất hay. Bởi
lẽ, những giáo huấn của cổ thánh tiên hiền Trung
Quốc lưu lại, chúng ta đều gọi là Kinh. Do
giáo huấn của đức Phật cũng vô cùng quư báu,
dùng chữ Kinh này để phiên dịch là hay nhất.
Trước
chữ Kinh, thêm chữ Khế (契). Khế là Khế Lư. Lư là Thật
Tế lư thể, Lư là ǵ? Lư là chân tướng sự thật.
Nói theo cách bây giờ, Thật Tế lư thể là chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, mọi người dễ
hiểu điều này. Do vậy, kinh nhất định
giảng chân tướng sự thật, chẳng phải là
nói ṃ, chẳng phải là nói tùy tiện. Đây là chân tướng
sự thật thứ nhất.
Thứ hai là
phải Khế Cơ, tức là thích hợp tŕnh độ
của chúng sanh. Quư vị giảng quá sâu, họ nghe sẽ không
hiểu. Quư vị giảng quá cạn, họ sẽ chẳng
hứng thú! Nhất định phải thích hợp! Lại
c̣n phải thích hợp thời đại. V́ thế, kinh
điển sống động. Kinh Phật do đức Phật
nói. Quư vị thấy, mỗi triều đại đều
chú giải kinh điển rất nhiều. Chú giải là ǵ?
Chú giải nhằm khế cơ. Trong mỗi triều đại,
trong mỗi xă hội và dân tộc khác nhau, họ cần những
ǵ, dùng phương pháp ǵ để giảng [cho thích hợp],
đó là sống động. Lời Phật giảng là
nguyên lư, nguyên tắc, các vị tổ sư đại
đức giảng giải, tức là đă giảng theo kiểu
hiện đại hóa, người hiện thời đều
có thể thụ dụng, đó là Khế Cơ.
[Kinh Phật] ắt
phải phù hợp hai điều kiện ấy. Nếu nói
khế cơ chẳng khế lư, đó là ma thuyết, chẳng
do Phật thuyết. Rất thích hợp với người
nghe, người ta rất thích nghe, nhưng chẳng phù hợp
Lư, chẳng phải là chân tướng sự thật, đấy
là tà thuyết. Nếu khế lư chẳng khế cơ, sẽ
là lời lẽ vô ích. Lư hay lắm, nhưng người ta
nghe chẳng hiểu, nghe xong chẳng vận dụng được!
V́ vậy, ắt phải phù hợp hai điều kiện ấy
th́ mới gọi là “kinh điển”.
Đây là cách thông thường để giới thiệu những
ư nghĩa được bao hàm trong chữ Kinh, trên thực
tế, c̣n có rất nhiều ư nghĩa mà các đồng học
học Phật chúng ta chớ nên không biết. Không biết,
tức là quư vị chưa phải là kẻ thông hiểu!
“Kim vị tỉnh văn, lược
khử Khế tự” (nay v́ nói gọn, lược bỏ
chữ Khế), người Trung Quốc chuộng đơn
giản, tuyệt đối chẳng thích rườm rà, không
giống người Ấn Độ. Người Ấn
Độ ưa rườm rà, càng nói chi tiết càng hay!
Người Trung Quốc yêu cầu như thế nào? Nói tới
trọng tâm rồi thôi, chẳng dây cà dây muống. Người
Trung Quốc là như vậy đó. V́ thế, ngôn ngữ và
văn tự Trung Quốc thời cổ đ̣i hỏi phải
đạt tiêu chuẩn gồm bốn chữ là “giản, yếu, tường,
minh”, tức là đơn giản, tóm tắt, nhưng vẫn
phải cặn kẽ, vẫn phải rơ ràng. Ăn nói như
vậy mới là ăn nói giỏi, văn chương
như thế mới là văn chương hay. Nhưng
người Ấn Độ lại khác, quả thật chẳng
ngại phiền. Người Hoa nói ǵ chẳng lặp
đi lặp lại, văn chương nhắc đi nhắc
lại sẽ gọi “trùng lặp”, chẳng phải là
văn chương hay! Nhưng kinh Phật chẳng vậy,
kinh Phật là nhắc đi nhắc lại. Lặp đi lặp
lại cũng có lợi, đối với kẻ trung hạ
căn sẽ rất hữu ích. “Giản,
yếu, tường, minh” thật sự chỉ hữu
ích cho người thượng thượng căn, kẻ
trung hạ căn nghe một lần chưa hiểu,
nhưng không được nghe lần nữa! Không giống
như kinh Phật, quư vị nghe một lần không hiểu,
chẳng sao! Phía sau c̣n nhắc lại nhiều lượt,
quư vị cứ thong thả mà học, nói chung rồi sẽ
nghe hiểu! Đấy là Phật từ bi, từ bi hơn
Khổng lăo phu tử rất nhiều! Khổng Tử và Mạnh
Tử chẳng từ bi như Phật, mà đ̣i hỏi rất
cao, cho nên [sách Nho mới chép]: “Cử
nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản” (nêu lên một
góc, chẳng suy ra được ba góc kia), Khổng lăo phu tử
chẳng dạy quư vị, [chê bai]: “Nhà ngươi quá đần
độn!” Giống như căn nhà này, tôi bảo quư vị
góc này vuông vức đúng chín mươi độ, quư vị
phải nghĩ là ba góc kia cũng giống như thế. Nếu
quư vị chẳng nghĩ ra, phải dạy quư vị từng
thứ một th́ Khổng lăo phu tử chẳng dạy quư
vị, “gă này đần quá!”
Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi, Ngài sẽ dạy
quư vị: “Góc này chín mươi độ, nh́n sang góc kia,
góc kia cũng là chín mươi độ”, Ngài chẳng nề
hà phiền phức. Từ chỗ này, ta thấy được
ḷng từ bi của đức Phật. V́ vậy, nói thật
thà, học Phật dễ hơn học Nho. V́ thế, Phật
giáo truyền sang Trung Quốc, Phật giáo là giáo dục, giáo
dục Phật giáo thịnh vượng hơn giáo dục
Nho gia. V́ sao? Thuận tiện, ḥa đồng, ba căn
thượng trung hạ, thượng thượng căn,
hạ hạ căn Phật đều dạy. Khổng lăo
phu tử dạy học th́ [học tṛ] phải là trung
thượng căn trở lên. Thấp hơn trung thượng
căn, phu tử sẽ chẳng muốn dạy, “rơ ràng là
ngươi quá đần độn!” Đây là một nhân
tố khiến cho nền giáo dục Phật giáo có thể
phổ biến, phổ cập toàn dân tại Trung Quốc,
tỏ rơ tấm ḷng yêu thương của đức Phật.
Chữ
Kinh này có bốn ư nghĩa, thông thường, hễ giảng
kinh, nhất định phải giới thiệu. Kinh có bốn
ư nghĩa là “quán, nhiếp,
thường, pháp”:
1) Quán (貫) là “quán
xuyên sở thuyết chi lư” (thông suốt, xuyên suốt Lư
đă được nói). Nói theo cách bây giờ là phù hợp
lư luận, thật sự là một môn học thuật cao
sâu, người hiện thời gọi là “la-tập” (Logic, luận lư học) giảng về
biện chứng pháp (Dialectics)[1],
nói theo danh từ Phật pháp là Nhân Minh (Hetuvidyā). V́ thế,
trong Phật pháp có khoa Nhân Minh Học. Nhân Minh Học nay
được gọi là La Tập, hoặc Biện Chứng
Pháp. “Quán” là có phương
pháp tuân theo Luận Lư Học, v́ thế, giảng hết sức
mạch lạc, có trật tự; người Trung Quốc
gọi điều đó là “hữu
điều bất vặn” (有條不紊: sắp xếp mạch lạc, hợp
phương pháp, chẳng rối loạn), quư vị nghe rất dễ hiểu, rất
minh bạch.
2) Ư nghĩa thứ
hai là Nhiếp (攝), “Nhiếp tắc nhiếp tŕ sở
hóa chi sanh (chúng sanh)” (Nhiếp là thâu giữ những chúng
sanh được giáo hóa). Đây là Nhiếp Tŕ. Tŕ là ǵn giữ,
[tức là] ǵn giữ những chúng sanh đă được
giáo hóa. Nếu dùng bốn chữ tiêu chuẩn này để
nhận định th́ văn chương Trung Quốc chỉ
đạt được điều thứ nhất là Quán,
thực hiện được chữ ấy! Tất cả
văn chương đạt được điều ấy,
c̣n ba chữ sau đó chưa chắc đă đạt
được! “Nhiếp” là
nhiếp thọ hết thảy chúng sanh, cũng là giống
như nó có sức hấp dẫn, sức thu hút. Sau khi tiếp
nhận, quư vị rất ưa thích, muốn bỏ mà chẳng
thể bỏ được. Điều này chẳng
đơn giản. V́ thế, kinh Phật khiến cho quư vị
đọc một lần, vẫn muốn đọc lần
thứ hai, lần thứ ba, càng đọc, càng ưa thích,
sức nhiếp thọ của kinh có thể chiếm
lĩnh tâm hồn người đọc; điển tịch
của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc có sức mạnh
này. Chẳng hạn như Tứ Thư, Ngũ Kinh có
năng lực này. Quư vị thuở bé đọc Tứ
Thư, đến lúc bảy tám mươi tuổi, đọc
Tứ Thư vẫn hứng thú tràn trề, chúng có sức mạnh
ấy! Quư vị đọc tiểu thuyết, sau khi đọc
một hai lượt, chẳng muốn đọc lần
thứ ba. Tiểu thuyết dù hay cách mấy, thuở bé, tôi
thích coi, ưa chuộng nhất bốn bộ tiểu thuyết
Trung Quốc là Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du Kư, và Hồng
Lâu Mộng, [mỗi bộ] đại khái tôi đọc tới
mười lần, nhưng sau khi đọc mười lần,
suốt đời này, chẳng muốn đọc lại
nữa! Nói cách khác, sức nhiếp thọ của chúng chỉ
lớn chừng đó, sau khi xem mười lượt sẽ
chẳng muốn đọc nữa! Chẳng giống như
kinh Phật, quư vị đọc kinh Phật một vạn
biến cũng chẳng ngán, càng đọc càng ưa thích,
sức nhiếp thọ to lớn.
3) Chữ thứ
ba là Thường (常).
“Thường tắc cổ kim
bất dịch” (Thường là xưa nay chẳng thay
đổi). Người hiện thời gọi [điều
này] là Chân Lư. Những điều kinh Phật giảng chính
là chân lư, chân lư vĩnh hằng chẳng thay đổi. Những
điều đức Phật giảng từ ba ngàn năm
trước là chính xác, tới nay, ba ngàn năm sau vẫn chính
xác. Tại Ấn Độ, dạy người Ấn
Độ chính xác, truyền sang Trung Quốc, dạy người
Trung Quốc vẫn chính xác! Cũng có nghĩa là những lư
luận và phương pháp của đức Phật siêu việt
thời gian và không gian, nên gọi là Thường. Điều
này hết sức khó đạt được!
4) Điều
cuối cùng là Pháp (法),
“Pháp tắc cận viễn
đồng tuân” (pháp là xa gần cùng tuân thủ). Người
thời cổ và người hiện tại đều phải
tuân những phương pháp đă được dạy
trong kinh điển.
Có thể phù hợp
bốn điều kiện ấy mới gọi là Kinh.
Văn chương của phàm nhân sáng tác chẳng thể trọn
đủ bốn điều kiện này, nên chẳng thể
gọi là Kinh. Trọn đủ bốn điều kiện
này mới có thể gọi là Kinh. Như Tứ Thư của
Trung Quốc có thể gọi là Kinh, v́ quả thật Tứ
Thư có “quán, nhiếp, thường,
pháp”, phù hợp bốn điều kiện ấy. Nói tới
Ngũ Kinh th́ phần lớn là có [bốn điều kiện
ấy]. Trong thời đại hiện tại, có thể
dùng tinh thần, chứ không thể dùng phương pháp
[được nói trong Ngũ Kinh], v́ phương pháp phù hợp
thời đại đó, [chẳng phù hợp thời đại
này], chẳng giống như kinh Phật. Những điều
được giảng trong kinh Phật là sống động.
“Thượng thuật tứ tự,
khả tận Kinh tự chi nghĩa” (bốn chữ vừa
nói trên đây, có thể gồm trọn hết những ư
nghĩa của chữ Kinh). Thông thường để giải
thích chữ Kinh, luôn dùng bốn chữ “quán, nhiếp, thường, pháp” này!
“Hựu Phật sở thuyết giả,
thông danh vi Kinh” (lại nữa, những điều do đức
Phật nói đều gọi chung là Kinh), những ǵ do Thích
Ca Mâu Ni Phật đă giảng, “cố
đề trung Kinh chi nhất tự thị Thông Danh” (nên
một chữ Kinh trong tựa đề là tên chung). Phàm những
ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng đều gọi
là Kinh; v́ thế, Kinh là Thông Danh (tên chung). Tất cả hết
thảy những giáo huấn của thánh hiền cũng gọi
là Kinh, nhưng Kinh [của thánh hiền] chưa chắc
đă có hội đủ ư nghĩa gồm trong bốn chữ
“quán, nhiếp, thường,
pháp”. Tuy đều là Kinh, nhưng có rất nhiều thứ
chẳng phù hợp định nghĩa “quán, nhiếp, thường, pháp” này. Đấy chính
là chỗ vượt trội của kinh Phật so với
các thứ kinh điển khác! Những câu này nhằm giới
thiệu Kinh danh xưng chung.
Tiếp
đó, sách Chú Giải viết: “Phật
Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác”, mười bốn chữ
ấy, “thị bổn kinh
độc cụ chi biệt danh” (là tên riêng chỉ ḿnh
kinh này có). Đều do đức Phật nói, nhưng không
giống những kinh khác [th́ danh xưng ấy] được
gọi là Biệt Danh. Như vậy đề mục kinh
này gồm mười lăm chữ bao gồm Thông Đề
(Thông Danh) và Biệt Đề (Biệt Danh). Mười bốn
chữ đầu là Biệt Đề, một chữ Kinh
sau đó là Thông Đề.
“Chư kinh lập danh, bất ly
nhân, pháp, dụ. Hoặc đơn, hoặc phức, khả
đắc thất loại: Đơn nhất giả tam, cụ
nhị giả tam, cụ túc giả nhất, cộng thành thất
loại” (Đặt tên các kinh, chẳng ngoài nhân, pháp, dụ,
có thể là đơn hoặc phức, chia thành bảy loại:
Đơn danh, tức chỉ một thứ, gồm ba loại,
gồm hai thứ có ba loại, có đủ ba thứ chỉ
có một loại, cộng thành bảy loại). Đây là
nói đến việc đặt tên kinh Phật có quy củ,
chẳng phải là nói tùy tiện. V́ thế, người
thông hiểu vừa nh́n vào [đề mục kinh, đă biết]
kinh này là thật hay là ngụy tạo. Những kinh ngụy
tạo có đề mục chẳng phù hợp nguyên tắc
này. Chẳng phù hợp nguyên tắc này, sẽ chẳng phải
là kinh Phật chân chánh. Kinh Phật chân chánh nhất định
phải phù hợp nguyên tắc này, tức bảy tiêu chuẩn.
Nói tóm lại, bảy tiêu chuẩn chẳng ngoài “nhân, pháp, tỷ dụ”, trong
đề mục nhất định lấy những
điều ấy làm nguyên tắc.
“Đơn nhân”, là chỉ dùng người (nhân) làm đề mục,
“A Di Đà Kinh, A Di Đà thị
nhân” (kinh A Di Đà, A Di Đà là người), A Di Đà là
Biệt Đề, Kinh là Thông Đề, trong tựa đề
kinh ấy chỉ có Nhân, không có Pháp, không có tỷ dụ.
“Đơn pháp, Đại Bát Nhă Kinh, Bát Nhă thị
Pháp” (Đơn pháp
là như kinh Đại Bát Nhă, Bát Nhă là Pháp), không có Nhân, không
có Dụ, tức là không có tỷ dụ.
“Đơn dụ, Phạm Vơng kinh”
(chỉ có Dụ là như kinh Phạm Vơng), Phạm Vơng (Brahmajala) là cái
lưới của Đại Phạm Thiên. Dùng cái lưới
của Đại Phạm Thiên để sánh ví. V́ thế,
Phạm Vơng là tỷ dụ, không có Nhân, mà cũng chẳng
có Pháp.
Ba loại ấy
được gọi là “đơn
tam đề” (ba loại đề mục kinh chỉ
dùng một thứ để đặt tên).
“Phức nhị đề” cũng có ba loại; trong ấy
có:
- Nhân Pháp, tức
là trong đề mục có người và pháp, như Văn
Thù Vấn Bát Nhă Kinh. Văn Thù là Nhân, Bát Nhă là Pháp, trong ấy
chẳng có tỷ dụ.
- Dùng Pháp và Dụ
để đặt tên như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Diệu
Pháp là Pháp, Liên Hoa là tỷ dụ, trong ấy chẳng có
Nhân.
- Dùng Nhân và Dụ
để đặt tên kinh như Bồ Tát Anh Lạc Kinh,
Bồ Tát là Nhân, Anh Lạc là tỷ dụ, trong ấy chẳng
có Pháp.
Ba thứ này gọi
là “phức tam chủng lập
đề”.
Nhân, pháp, dụ
thảy đều có đủ, cả ba thứ ấy
đều có, đầy đủ nhân, pháp, dụ là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đề kinh có
đủ cả ba thứ ấy. Phật là Nhân, Đại
Phương Quảng là Pháp, Hoa Nghiêm là tỷ dụ (Dụ).
Do vậy, Nhân, Pháp, Dụ đều có.
Đây là bảy
nguyên tắc để đặt tựa đề cho kinh
Phật. Nếu chẳng tương ứng [với bảy
nguyên tắc ấy], nhất định chẳng phải
là kinh Phật. Nếu bảo nó là kinh Phật th́ đó là giả,
chẳng thật! Kinh Phật thật sự sẽ chẳng
trái phạm quy củ này.
“Kim bổn kinh đề diệc
cụ túc Nhân, Pháp, Dụ” (nay tựa đề kinh này
cũng trọn đủ Nhân, Pháp, Dụ). Hạ lăo cư
sĩ hội tập kinh này, đặt tựa đề trọn
đủ Nhân, Pháp, Dụ. “Đề
trung Phật tự biểu thử độ quả nhân”
(chữ Phật trong tựa đề biểu thị
người đă chứng quả trong cơi này): “Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật,
tức là vị đă chứng quả trong cơi này. “Quả nhân” là người
đă chứng Phật quả, là Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng
ta học Phật nhất định phải biết, bất
luận ở chỗ nào cũng phải nói rơ ràng với
người khác, nếu người ta hỏi đến
Phật th́ Phật là giáo dục. Chúng ta tiếp nhận sự
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, nói rơ Phật chẳng
phải là tôn giáo, chẳng liên quan ǵ đến tôn giáo! Kể
từ khi tôi được tiên sinh Phương Đông Mỹ
giới thiệu tiếp xúc Phật giáo, tôi học theo sự
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng theo tôn giáo.
Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch điều này. Hiệp
hội của chúng ta là hiệp hội giáo dục của
đức Phật, chớ nên mơ hồ, khiến cho
người khác nẩy sanh hiểu lầm!
Phật, Bồ
Tát, A La Hán là những danh xưng học vị trong nền
giáo dục của đức Phật, mà cũng là những
danh xưng chung. Phật là học vị tối cao, Bồ
Tát là học vị thứ hai, A La Hán là học vị thứ
ba, có cùng một ư nghĩa với [các học vị] tiến
sĩ, thạc sĩ, học sĩ như trong nhà trường
hiện thời. Thích Ca Mâu Ni Phật tu học đă đạt
tới tầng lớp cao nhất, nên gọi Ngài là Phật
Đà. C̣n những vị như Văn Thù, Phổ Hiền
được nhắc đến trong kinh sách, tuy chưa đạt
tới tối cao, nhưng tu cũng rất khá, thuộc vào
học vị Bồ Tát. Lại c̣n có Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên là A La Hán, thuộc học vị thứ ba. [Gọi
Phật, Bồ Tát, A La Hán là nói tới] danh xưng học vị,
các Ngài chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải
là tiên, các Ngài là người. Phải hiểu rơ ràng, minh bạch
th́ chúng ta mới thật sự học được thứ
này thứ nọ trong Phật pháp có lợi ích cho chúng ta.
Lợi
ích phổ biến nhất là thân tâm khỏe mạnh, quư vị
có muốn hay không? Quư vị học Phật, khẳng định
phải đạt được điều đầu
tiên này! Nhà Phật nói “trường
sanh bất lăo” là thật, chẳng phải là mê tín,
đáng tiếc là chúng ta công phu chẳng tới mức, phải
nâng công phu lên cao hơn, nâng cao tới cảnh giới nào? Nâng
cao tới A La Hán là được rồi, A La Hán trường
sanh bất lăo. Nay chúng tôi chỉ mới dính dáng một chút
bên ngoài, hưởng nhờ một tí bên bề ngoài, hết
thảy mọi người quư vị thấy tôi tuổi
tác không ngừng tăng lên, nhưng cũng chẳng suy lăo, thật
đấy, chẳng giả! Năm 1999, tôi giảng kinh tại
Tân Gia Ba, có một vị cư sĩ là nữ tu Thiên Chúa
Giáo tại Tân Gia Ba, đến gặp tôi, muốn quy y Phật
môn. Bà ta hỏi: “Tôi có đủ điều kiện để
quy y hay không?” Tôi nói: “Chẳng có vấn đề ǵ, bà hội
đủ điều kiện”. Tôi quy y cho bà ta, năm ấy,
bà ta đă một trăm lẻ một tuổi, được
gọi là “người thanh niên
một trăm lẻ một tuổi”. Bà làm công tác thiện
nguyện chăm sóc người già. Người già đều
là bảy, tám chục tuổi! Bà ta phục vụ, chăm
sóc họ mỗi ngày, chăm nom hai mươi mấy
người già, rất khó có! Hiện thời, thân thể
bà ta vẫn vô cùng khỏe mạnh. Mấy hôm trước,
tôi nghe nói bà ta muốn sang một viện dưỡng lăo ở
Tân Cương phục vụ nửa năm. Năm 1999, bà
ta đă một trăm lẻ một tuổi, năm nay là
năm 2010, bà ta phải là một trăm mười một
tuổi, không phải vậy, năm 1999, bà ta đă một
trăm lẻ một tuổi, năm nay là một trăm
mười hai tuổi. Một trăm mười hai tuổi
vẫn làm công tác thiện nguyện, vẫn chăm sóc
người già sáu, bảy chục tuổi, bà ta chẳng
già, vẫn nói ḿnh là thanh niên! Đầu tiên là thân tâm khỏe
mạnh, quư vị chẳng có phiền năo, mà có trí huệ,
phiền năo nhẹ đi, trí huệ tăng trưởng. Gia
đ́nh quư vị ḥa thuận, sự nghiệp thuận lợi,
nơi quư vị sống ḥa thuận, chẳng có ǵ không tốt
đẹp! Đấy là lợi ích hiện tiền của
Phật pháp. Một người tu hành như vậy ở
nơi ấy, các nhà Lượng Tử Học cho biết:
Người ấy ở khu vực nào, trong vùng phụ cận,
tỷ lệ phạm tội chắc chắn rất ít, do
nguyên nhân nào? Từ trường tốt đẹp! Một
đạo tràng thành lập ở đây, người thật
sự học tập rất nhiều, tỷ lệ phạm
tội trong khu vực này sẽ giảm bớt với một
mức độ to lớn, đó là sự thật. V́ vậy,
chúng ta nói tới Phật, Pháp, Tăng, nói chung phải hiểu
ư nghĩa thật sự. Nếu không, người ta sẽ
nói chúng ta mê tín, sai lầm rất lớn. Do vậy, chữ
Phật ở đây là “thử
độ quả nhân”, trong thế gian này, Ngài là một
người tu học đă đạt được học
vị tối cao.
“Vô Lượng Thọ thị bỉ
phương quả nhân” (Vô Lượng Thọ là người
chứng quả trong phương kia), Vô Lượng Thọ
ở Tây Phương Cực Lạc thế giới,
cũng là A Di Đà Phật đạt học vị tối
cao. A Di Đà dịch là Vô Lượng Thọ, Phật là danh
xưng học vị. Ngài và Thích Ca Mâu Ni Phật có học vị
tương đồng, b́nh đẳng. “Cố đề trung cụ lưỡng độ
quả nhân” (do vậy, trong tựa đề kinh có hai vị
chứng quả trong hai cơi), trong một tựa đề
kinh có hai người, chẳng phải là một người,
mà là hai người, đều đạt được
học vị tối cao.
Bảy
chữ “trang nghiêm thanh tịnh
b́nh đẳng giác” là pháp, “Đại
Thừa nhị tự” (hai chữ Đại Thừa) là
tỷ dụ. “Thừa giả”
(Thừa là), âm cổ là Thặng (乘), nay chúng ta thường đọc là Thừa,
âm cổ đọc là Thặng, có nghĩa là xe, thuở ấy
là xe ngựa! “Thử kinh khả
vận tải vô lượng chúng sanh hàm đạt bảo
sở” (kinh này có thể chuyên chở vô lượng chúng
sanh cùng đến được chỗ có của báu), nói
theo cách bây giờ, “bảo sở” là “bảo địa”
(nơi đất báu). Bộ kinh này có thể chở chúng
ta sang Tây Phương Cực Lạc thế giới bảo
địa. Như trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Đại bạch ngưu xa”. Đại bạch
ngưu xa là xe ngựa. Thời cổ, xe ngựa lớn nhất,
có thể ngồi được rất nhiều người.
Tôi nhớ lúc bé, đi học tại Nam Kinh, lúc ấy
đang học Sơ Trung (trung học đệ nhất cấp,
cấp hai), phương tiện giao thông ở Nam Kinh rất
ít, xe ngựa rất nhiều. Xe ngựa rất rẻ, h́nh
như là một hai xu, rất rẻ! Một cỗ xe ngựa,
tôi nhớ thường ngồi được mười
bốn đứa học tṛ, mười bốn đứa
nhỏ ngồi chung một chiếc xe ngựa đi học.
Do vậy, dùng Đại Thừa làm tỷ dụ, Đại
Thừa là cỗ xe ngựa lớn.
“Chư kinh giai cụ Giáo, Hành, Lư”
(các kinh đều có đủ Giáo, Hành, Lư), hết thảy
các kinh đều có bốn ư nghĩa ấy, ở đây,
[lời chú giải] đă tỉnh lược một chữ,
lẽ ra phải là Giáo - Hành - Lư - Quả. Một bộ kinh
nhất định có bốn ư nghĩa ấy; ở
đây, Quả bị lược đi, Quả là chứng
quả, tức đạt được học vị. “Phật Thuyết Đại Thừa
thị Giáo” (Phật Thuyết Đại Thừa là
Giáo), đấy là giáo học. “Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác thị Hành” (Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác là Hành). Như vậy
th́ đây là Giáo kinh mà cũng là Hành kinh, quư vị hành sẽ
đạt được, chẳng hành sẽ chẳng
đạt được! “Vô
Lượng Thọ thị Lư” (Vô Lượng Thọ là
Lư), Vô Lượng Thọ [là Lư] mà cũng là Quả. Các vị
tổ sư đại đức xưa nay giải thích tựa
đề kinh chẳng hoàn toàn giống nhau. Có những vị
có cách giảng riêng, nhưng đều giảng hợp lư, đúng
lư, đúng pháp, nên [thuyết của các Ngài] đều
được công nhận. Do vậy, chúng ta đọc nhiều
về giáo pháp Đại Thừa, đối với những
thứ do tổ sư đại đức đă giảng
từ xưa, quư vị có thể dung hội, ḥa hợp,
tham khảo nhiều bản [chú giải khác nhau]. Ở Trung
Quốc, vào thời cổ, kinh Vô Lượng Thọ có hai
bản chú giải để tham khảo. Những tác phẩm
chú giải của Nhật Bản càng nhiều, có hơn hai
mươi thứ như trong phần trước chúng ta
đă thấy. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giới
thiệu, phần nhiều là nh́n vào cách người khác giảng
giải tựa đề kinh và Huyền Nghĩa. Bậc tu
hành lăo luyện, thật sự thâm nhập Kinh Tạng
thường chẳng nh́n xem quư vị giảng giải nội
dung kinh như thế nào, chẳng xem phần ấy, mà xem
phần Huyền Nghĩa. Huyền Nghĩa là ǵ? Là báo cáo tâm
đắc tu học của quư vị, trong ấy có cảnh
giới của chính quư vị, nên bậc tu hành lăo luyện
thường thích xem phần ấy. Kẻ sơ học
thích xem cách giảng từng câu kinh một, xem lời chú giải.
“Vô Lượng
Thọ biểu tam tế nhất như, Niết Bàn thường
trụ chi Pháp Thân bổn thể” (Vô Lượng Thọ biểu thị ba đời giống
hệt như nhau, Pháp Thân bổn thể thường trụ
Niết Bàn). “Tam tế” (三際) là quá khứ, hiện tại, vị lai,
cũng có thể nói là Lư Thể được chứng bởi
tam thế chư Phật. Lư Thể ấy thường
được gọi là “chư
pháp Thật Tướng”, tức là chân tướng của
hết thảy các pháp, chẳng hề mê tín! Khoa học và
triết học hiện tại đang nghiên cứu những
ǵ? Chân tướng của vũ trụ và vạn vật.
Trải qua nhiều niên đại như thế, những
triết học gia và khoa học gia xưa nay trong ngoài
nước đă nghiên cứu, có thể nói là họ đă
đạt thành tựu khá khả quan; nhưng c̣n có khá nhiều
nghi vấn chưa thể giải đáp! Nói tới khởi
nguyên của vũ trụ, các khoa học gia hiện đại
cho rằng có một vụ Bùng Nổ Lớn (Big Bang),
nhưng thuyết Bùng Nổ Lớn ấy chẳng thể
nói trọn vẹn, cái ǵ đă bùng nổ? Do nguyên nhân nào mà bùng nổ?
Chẳng thể giảng rơ ràng những điều ấy.
Nói Big Bang là chỉ nh́n vào một hiện tượng, quan
sát thấy bằng viễn vọng kính: Trong vũ trụ, thấy
tất cả những tinh cầu [bùng nổ] ấy dường
như đều ở quá xa chúng ta. Đây là một hiện
tượng Bùng Nổ, [do nh́n] từ chỗ này [mà lập
ra thuyết ấy]. Thuyết ấy chẳng thể nói trọn
vẹn, chỉ do tạm thời quan sát hiện tượng
mà có được kết luận như vậy, vẫn
phải tiếp tục nghiên cứu. Hiện thời, Lượng
Tử Lực Học (Quantum Mechanics) lại phát hiện,
phát hiện ǵ vậy? Phát hiện hiện tượng vật
chất sanh khởi là “vô trung sanh
hữu” (từ trong Không mà sanh ra Có), tốc độ vô
cùng nhanh chóng, sau khi sanh ra, bèn tiêu diệt trong khoảng
sát-na. Cách nói này hết sức giống với những
điều được giảng trong kinh Phật; bởi
lẽ, Phật pháp giảng nguyên khởi của vũ trụ
là A Lại Da nguyên khởi, A Lại Da là ǵ vậy? Hiện
thời, A Lại Da quả thật đă bị các nhà Lượng
Tử Lực Học phát hiện; nhưng c̣n có một vấn
đề: A Lại Da do đâu mà có? Họ chẳng có cách
nào [khám phá], nhưng kinh Phật có thể nói rơ: A Lại Da do
đâu mà có? V́ sao có A Lại Da?
Do
vậy, thuở ấy, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới
thiệu Phật pháp với tôi, [đă bảo] Thích Ca Mâu Ni Phật
là một bậc đại triết học gia. Tôi học
Triết với cụ, chúng tôi muốn t́m triết học
gia, chẳng t́m tôn giáo, không t́m đến mê tín! Cụ nói: “Thích Ca Mâu Ni là đại triết
học gia, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết
học cả thế giới. Học Phật là hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Tôi được
cụ uốn nắn quan niệm sai lầm trước kia
như vậy, tôi cứ tưởng Phật giáo là tôn giáo,
mê tín, cụ đă chuyển đổi quan niệm sai lầm
ấy. Tôi học Phật từ lúc bắt đầu học
với thầy Phương cho tới nay là năm
mươi chín năm, sang năm là một giáp. Năm
mươi chín năm học tập, chứng tỏ lời
thầy nói là thật, chẳng giả. V́ thế, tôi nhớ
măi không quên ân đức của thầy. Nếu không
được thầy chỉ dẫn, làm sao chúng tôi biết
trên thế giới có thứ tốt đẹp như vậy,
ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, quư vị nói
có đáng tiếc lắm không? Bao nhiêu người bỏ lỡ!
Hiện thời,
chúng tôi đă nghiên cứu, học tập Phật giáo năm
mươi chín năm, phát hiện nó không chỉ là đỉnh
cao nhất trong triết học, mà c̣n là khoa học đạt
tới đỉnh cao nhất. Những vấn đề
mà khoa học và triết học hiện tại chẳng thể
giải quyết, đều có toàn bộ [lời giải
đáp] trong kinh Đại Thừa. Khoa học gia phát hiện
vấn đề ấy, chúng ta mở kinh Phật ra xem thấy
ngày càng gần gũi, rốt cuộc họ có thể đạt
tới cảnh giới của Phật hay chăng? Chẳng
thể nào! V́ sao chẳng thể? Trong kinh Đại Thừa,
đức Phật đă giảng: Ư thức là tâm phân biệt,
năng lực của tâm ư thức rất lớn, chúng ta hăy
nghĩ thức thứ sáu tức ư thức, bên ngoài có thể
duyên khắp pháp giới hư không giới. Khoa học hiện
thời gọi điều này là “hoằng
quan thế giới” (đại vũ trụ, vũ trụ
vĩ mô, macrocosm). Quư vị có thể phan duyên toàn bộ
vũ trụ, bên trong quư vị có thể duyên tới A Lại
Da. Hiện thời, Lượng Tử Lực Học đă
thật sự duyên đến A Lại Da. Họ nói tới
ba tế tướng của A Lại Da, đương
nhiên chẳng rơ ràng, minh bạch như trong kinh Phật
đă giảng! Hiện nay, họ phát hiện trong vũ trụ,
thứ ǵ cũng đều không có, chỉ có ba thứ, giống
như trong Pháp Tướng Duy Thức đă giảng. Các
nhà Pháp Tướng Duy Thức chẳng thừa nhận
trong vũ trụ có thứ ǵ, họ chỉ thừa nhận
duy thức, [nghĩa là] chỉ có thức, chỉ có một
ḿnh thức! Thức là ba tế tướng, tức nghiệp
tướng, chuyển tướng, cảnh giới tướng,
họ dùng các danh từ ấy. Hiện thời, các nhà Lượng
Tử Lực Học nói ǵ? Vật chất, năng lượng,
thông tin là ba tế tướng của A Lại Da. Năng
lượng là nghiệp tướng của A Lại Da, diễn
đạt bằng những danh từ khác nhau, nhưng là
cùng một chuyện! Thông tin là chuyển tướng của
A Lại Da, cảnh giới tướng được các
nhà khoa học hiện tại gọi là “vật chất”. Hoàn
toàn tương đồng với Pháp Tướng, chẳng
đơn giản! Vũ trụ sâu xa kín nhiệm!
Đức
Phật dạy đến khi nào mới có thể thấy sự
sâu xa kín nhiệm ấy, là ai? Trong kinh Phật nói Bát Địa
Bồ Tát có công phu định lực ấy. Bởi lẽ,
các khoa học gia dùng dụng cụ, máy móc để quan
sát, phát hiện, Phật pháp không như thế, Phật pháp
dùng công phu định lực! Ngài nhập định rất
sâu, từ trong Định thấy được. Trong
Định, chẳng có giới hạn thời gian và không gian,
chẳng có chiều không gian. Ngài trực tiếp thấy,
cho nên thấy rơ ràng hơn các khoa học gia. Các khoa học
gia phải nhờ vào dụng cụ, máy móc, họ chưa
đoạn ư niệm. V́ vậy, đức Phật nói phải
đoạn sạch ư niệm, quư vị chớ nên dùng tâm ư
thức! Dùng tâm ư thức sẽ chẳng thể thấy chân
tướng, v́ sao? Cái mà quư vị trông thấy chính là huyễn
tướng, tâm ư thức cũng là huyễn tướng! Huyễn
tướng có thể duyên huyễn tướng, chẳng
thể duyên chân tướng. V́ thế nói: Các khoa học gia
chắc chắn chẳng thể kiến tánh. Nếu khoa học
gia, triết học gia buông phân biệt, chấp trước,
khởi tâm động niệm xuống, họ sẽ thành Phật,
mới có thể thật sự thấy chân tướng. Do
vậy, chúng ta có thể nói: Các nhà Lượng Tử Lực
Học đă mon men bên lề Phật pháp. Nếu họ thật
sự có thể tiến thêm một bước đột
phá nữa, buông khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước xuống, họ sẽ chứng đắc,
không cần dùng dụng cụ khoa học, chẳng cần phiền
phức như vậy. Do các lẽ đó, nói Thật Tế
lư thể, nói “tam tế nhất
như”. “Niết Bàn thường trụ”, Niết Bàn (Nirvāna) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa là bất sanh bất diệt. Trong
Phật pháp, “Pháp Thân bổn thể”
được gọi là Chân Như, mà cũng là Chân Tâm,
hoặc Bổn Tánh, rất nhiều danh từ, tới mấy
chục loại! V́ sao đối với một chuyện mà
đức Phật nói ra lắm danh từ như thế? Đấy
là giáo học thiện xảo, dạy quư vị chớ nên
chấp trước tướng danh tự! Nói cách nào cũng
được, chỉ cần nói đúng chuyện này, phá chấp
trước, phá phân biệt đấy mà! Nói một danh từ,
quư vị liền chấp trước, phân biệt. Nói mấy
chục danh từ đều nhằm nói về chuyện
này, danh tướng là giả, đừng chấp trước,
quư vị mới hiểu nghĩa chân thật do đức Phật
đă giảng.
Pháp
Thân bổn thể “diệc tức
chúng sanh bổn cụ chi Phật Tánh” (cũng chính là Phật
Tánh mà chúng sanh vốn sẵn có), Pháp Thân bổn thể là Phật
Tánh của chính ḿnh. “Thị tâm
thị Phật chi bổn tâm. Cố phán thuộc ư Lư,
cái kỳ vi Thật Tế lư thể dă” (là bổn tâm “tâm
này là Phật”, nên phán định [Vô Lượng Thọ]
thuộc về Lư, v́ nó chính là Thật Tế lư thể). Nói
tới cuối cùng, vũ trụ và chính ḿnh là một, chẳng
hai. Đấy là ǵ? Nêu rơ quan hệ luân lư trong Phật pháp. Phật
pháp giảng luân lư thật tuyệt vời, rốt ráo viên
măn. Tổ tiên Trung Quốc nói tới luân lư, lấy thí dụ
như trong hiện thời là một gia tộc, từ gia tộc
mở rộng đến người ngoài: “Phàm thị nhân, giai tu ái” (phàm là người, đều
phải yêu thương). Quan hệ luân lư như trong Phật
pháp giảng, không chỉ là hết thảy mọi người
và chính ḿnh là nhất thể; Lăo Tử nói “thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn
vật dữ ngă nhất thể” (trời đất và
ta cùng một căn bản, vạn vật và ta cùng một
thể), hai câu ấy hết sức gần với Đại
Thừa Phật pháp, luân lư Phật pháp giảng điều
ǵ? Hoa, cỏ, cây cối và chính ḿnh là nhất thể; núi, sông,
đại địa và chính ḿnh là nhất thể; hư không
pháp giới và chính ḿnh là nhất thể. Giảng luân lư viên
măn, giảng đến rốt ráo. Hiểu rơ ràng mối quan
hệ, phẩm đức thứ nhất trong tự tánh là
ǵ? Là Ái. Phật không gọi là Ái, v́ sợ nói Ái, người
ta sẽ nẩy sanh hiểu lầm, v́ trong Ái có t́nh, Ái đó
sẽ chẳng thật, bị biến đổi; nhà Phật
nói là từ bi. Từ bi là Ái, trong từ bi có trí huệ, chẳng
có t́nh. Khi giác ngộ gọi là trí huệ, khi mê, trí huệ bèn
biến thành t́nh, nên gọi là “t́nh thức”. V́ lẽ đó,
trí huệ và t́nh thức là một chuyện. Một thể
mà có hai phương diện! Khi ngộ th́ là trí huệ, lúc
mê gọi là “t́nh chấp”. Đức Phật dạy chúng ta
hăy giác ngộ, chớ nên mê hoặc. Chúng sanh trong mười
pháp giới đều mê, chẳng giác, đến khi nào mới
thật sự giác ngộ? Từ bậc Sơ Trụ trong
Viên Giáo như kinh Hoa Nghiêm [đă nói] trở lên là giác ngộ.
Trong tâm các Ngài, hoàn toàn là trí huệ, chẳng c̣n có t́nh chấp.
Trong mười pháp giới, Phật pháp giới có chín phần
giác ngộ, vẫn c̣n một phần t́nh chưa đoạn.
Đạt đến địa vị Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo, t́nh chẳng c̣n, trí huệ mười phần
viên măn hiện tiền, mới hữu dụng, mới chẳng
lui sụt, mới chẳng đọa lạc. V́ thế, mục
tiêu chung cực của giáo học Phật pháp là dạy chúng
ta trở về tự tánh, trí huệ viên măn trong tự tánh
chính là Thật Tế lư thể.
“Phật Thuyết Đại Thừa
thị Giáo, tức y thử Vô Lượng Thọ chi Lư thể,
trực chỉ Đại Thừa vi dụ, vị tuyên thuyết
chúng sanh bổn cụ chi đại kinh, phán chi vi Giáo,
nghĩa thậm phân minh” (“Phật
Thuyết Đại Thừa” là Giáo, nghĩa là nương theo
lư thể của “Vô Lượng Thọ” để trực
chỉ Đại Thừa. [Vô Lượng Thọ] là tỷ dụ,
v́ đức Phật tuyên thuyết Đại kinh để
nói về cái chúng sanh vốn sẵn có đủ. Ư nghĩa
phán định chữ “Phật Thuyết Đại Thừa”
là Giáo hết sức rơ ràng). Ư nghĩa này rất
rơ ràng, rất minh bạch. Phần đầu [bản chú giải]
kinh này, Hoàng lăo cư sĩ đă nói một câu rất hay, “chúng sanh bổn cụ chi đại
kinh” (đại kinh nói về cái chúng sanh vốn sẵn
có đủ, hoặc có thể hiểu là: Đại kinh mà
chúng sanh vốn sẵn có). Nay chúng ta học kinh Vô Lượng
Thọ là học kinh Vô Lượng Thọ của ai? Chẳng
phải là A Di Đà Phật, chẳng phải là Thích Ca Mâu
Ni Phật, mà là chính ḿnh. V́ sao? Trong tâm của chính ḿnh, trong
chân tâm, trong tâm thanh tịnh đă trọn đủ Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác. Người Trung Quốc cũng nói tới bổn tánh.
Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (thoạt đầu,
con người tánh vốn lành). Đối với Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác, Tam Tự Kinh dùng một chữ là Thiện, bổn tánh
vốn lành! Thiện nghĩa là ǵ? Chính là mười bốn
chữ trong tựa đề kinh. Chính ḿnh, chẳng phải
bên ngoài, học điều này để làm ǵ? Học để
chúng ta trở về bổn thiện, quư vị liền thành
Phật. Hiện thời chúng ta như thế nào? Hiện
thời, chúng ta “tánh tương
cận, tập tương viễn” (tánh gần giống
như nhau, do huân tập mà khác xa), tánh của chúng ta là một,
đều là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đều
là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác, đều là như vậy; nhưng hiện
thời mê muội, lệch lạc, tà vạy, lệch sang tập
tánh. Tập tánh là ǵ? Ích kỷ, tự lợi, thị phi, nhân
ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn,
làm những chuyện ấy, lệch lạc rồi! Tiếp
nhận sự giáo dục của đức Phật là ǵ? Từ
lệch lạc, tà vạy quay trở lại, trở về
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác, trở về bổn thiện. Từ tập
tánh trở về bổn thiện là đúng. Điều đó
gọi là sự giáo dục của đức Phật. Sự
giáo dục của đức Phật là ǵ? Quư vị vốn
là Phật, nay quư vị đang mê muội, lệch lạc,
nên là chúng sanh. Chúng sanh chẳng làm ǵ, cứ luân hồi trong
lục đạo, bị khốn khổ ngần ấy bèn
oán trời hờn người, chẳng biết là tự làm,
tự chịu! Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch,
[sẽ thấy Phật pháp] vốn là sự giáo dục tốt
nhất trong thế gian và xuất thế gian!
Thầy
Phương về già dạy học tại Đài Loan, từ
lúc tôi được biết cụ cho đến khi cụ
mất, trong hơn hai mươi năm, hết thảy những
lớp cụ dạy đều là giảng kinh Phật, nhưng
cụ chẳng giảng từng bộ kinh một mà giảng
đại ư. Cụ dạy học cũng giống như Phật
Thích Ca hay Khổng Tử, dạy học chẳng có sách giảng
nghĩa, chẳng có sách giáo khoa. Cũng may là thuở ấy,
cụ c̣n phóng khoáng hơn thầy Lư một chút. Thầy Lư
giảng kinh chẳng cho phép người khác thâu âm, thâu h́nh
càng không chấp nhận! Nếu quư vị mang máy ghi âm đến,
Ngài sẽ chẳng giảng, nhưng thầy Phương cho
phép học tṛ ghi âm, chuyện này cũng tốt lắm. Quư
vị đọc Toàn Tập [của cụ Phương Đông
Mỹ] sẽ thấy đó là do học tṛ ghi lại, ghi từ
đâu ra? Chép từ băng thâu âm ra. Sách do chính cụ viết
không nhiều lắm, chỉ có mấy loại, hiện thời
Toàn Tập có kích thước lớn như vậy toàn là
chép từ băng thâu âm ra. Cụ chẳng thích dùng sách,
cũng chẳng thích dùng bài giảng soạn sẵn, mà tùy ư
nói ra không hạn chế. Tôi theo cụ một thời gian,
cụ đặc biệt giảng cho một ḿnh tôi. V́ thế,
tôi là học tṛ rất đặc biệt, các bạn đồng
học rất hâm mộ. Ở Hương Cảng, tiên sinh
Đường Quân Nghị[2] là học tṛ của cụ. Những
học tṛ thuở đầu ai nấy đều có thành tựu
rất khá. V́ thế, phương pháp cổ nhân đă sử
dụng hiện thời vẫn c̣n có người dùng, nhưng
học sinh phải có một tŕnh độ nhất định.
Chưa đạt đến tŕnh độ, nghe giảng cũng
chẳng hiểu thầy đang giảng ǵ! Thật sự
nghe hiểu, sẽ thấy vô cùng thú vị.
Do
vậy, phải hiểu: Hết thảy các kinh Phật, không
chỉ là một bản kinh này, mà hết thảy đều
là tự tánh, là một phần của Tánh Đức, một
phần là toàn phần. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”.
Chuyện này vừa mới được Lượng Tử
Lực Học phát hiện. Lượng Tử Lực Học
phát hiện bất luận một tế bào nào, một phân
tử c̣n nhỏ hơn tế bào, nhưng trong một phân tử
có thông tin viên măn về vũ trụ, họ phát hiện điều
này! Trong Phật pháp, điều này được nói rất
nhiều. Phật pháp nói trong mỗi một hạt vi trần
có toàn thể vũ trụ. Trong vi trần có thế giới,
thế giới chẳng rút nhỏ, vi trần chẳng ph́nh
to, trong ấy có thế giới viên măn. Đối với thế
giới ấy, chúng ta đă đọc kinh Hoa Nghiêm, thấy
kinh nói ai có thể thấy thế giới trong vi trần? Phổ
Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát có thể đến
tham học và giáo hóa chúng sanh trong thế giới ở trong vi
trần. Mỗi hạt vi trần đều là như vậy,
chẳng có ngoại lệ, một chính là nhiều, nhiều
chính là một. Một và nhiều chẳng hai! Trong tự tánh
không có lớn hay nhỏ, chẳng có xa hay gần. Không có xa
gần là chẳng có không gian; không có trước sau là chẳng
có thời gian, không có đối lập. Đấy chính là Tánh
Đức viên măn thấu lộ.
Tiếp
đó, sách viết: “Hựu tùng
Giáo khởi Hành, cố hạ văn trung Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác tức thị Phật sở giáo hóa chi
diệu hạnh dă” (Lại
c̣n từ Giáo khởi Hành nên Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác chính là diệu hạnh do đức Phật giáo hóa). Nay chúng ta nói Trang Nghiêm là “mỹ hảo” (đẹp đẽ), Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác là điều chúng ta tu học.
Tôi cũng có một
cách giảng riêng khác với cách giảng của cụ Hoàng,
tôi nghĩ cách tôi nói khiến cho mọi người dễ
hiểu hơn. Tôi đem [tựa đề kinh] phối hợp
với ba giai đoạn tu học là A La Hán, Bồ Tát, và Phật.
Buông chấp trước xuống, chẳng c̣n chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, tâm thanh tịnh hiện tiền; đấy là A La Hán. Bước
thứ nhất là quư vị khôi phục tâm thanh tịnh. Tiến
hơn bước nữa là buông phân biệt xuống, chẳng
c̣n có ư niệm phân biệt, tâm quư vị đắc định.
Chẳng c̣n phân biệt là tâm b́nh đẳng hiện tiền;
đấy là Bồ Tát. A La Hán c̣n có phân biệt, Bồ Tát chẳng
phân biệt. Cuối cùng, khởi tâm động niệm
đều không có, sự giác ngộ ấy chính là Phật Đà.
V́ thế, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là ba tầng tu
học theo thứ tự, ba giai đoạn. Bậc thượng
thượng căn bỏ ngay, đoạn ngay khởi tâm
động niệm, phân biệt, chấp trước, Lục
Tổ Huệ Năng trong Thiền Tông là người như
vậy. Ngài có thể buông xuống ngay lập tức, nên thành
Phật, phàm phu bèn thành Phật. V́ thế, nói theo lư luận,
phàm phu thành Phật cần bao nhiêu thời gian? Một niệm!
Trong một niệm, phàm phu có thể thành Phật. Quư vị
nghĩ xem, trong một niệm chúng ta có thể tiêu diệt
tội nghiệp hay không? Quư vị chẳng hiểu rơ ư?
Hễ một niệm giác th́ mầm mống tội lỗi
đă tạo trong vô lượng kiếp sẽ chẳng c̣n
nữa, đều tiêu hết, thành Phật rồi!
Trong
kinh, đức Phật có nêu một tỷ dụ: “Pḥng tối ngàn năm”. Căn
pḥng ấy tối tăm cả ngàn năm, chẳng hề
có ánh đèn chiếu tới. Pḥng tối ngàn năm tỷ dụ
điều ǵ? Tỷ dụ thời gian quư vị tạo
tác tội nghiệp rất dài, tội rất nặng, nhưng
thắp một ngọn đèn sẽ chiếu sáng, tối tăm
chẳng c̣n nữa! V́ thế, chúng ta hiểu đạo lư này,
buông khởi tâm động niệm xuống sẽ thành Phật.
Trong kinh Đại Thừa, khởi tâm động niệm
được gọi là “căn bản vô minh”. Tất cả
hết thảy các hiện tượng hư vọng, y báo
và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là huyễn tướng,
“phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, “hết
thảy hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bọt, bóng”,
hết thảy mọi người đều biết đọc
những câu ấy, nhưng quư vị có cảm nhận được
hay chăng? Chúng ta chia nó thành từng giai đoạn. Chẳng
chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, lục đạo sẽ chẳng c̣n. V́ thế
biết: Tạo thành lục đạo nghiêm trọng nhất
chính là chấp trước. Chẳng c̣n chấp trước,
lục đạo sẽ chẳng c̣n! C̣n có tứ thánh pháp
giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật,
đó là ǵ? Phân biệt. Quư vị có phân biệt, sẽ có [tứ
thánh pháp giới]. Chẳng có phân biệt, tứ thánh pháp giới
sẽ chẳng có, mười pháp giới cũng chẳng
có, chỉ c̣n lại cái được gọi là Nhất Chân
pháp giới. Chẳng có khởi tâm động niệm sẽ
vượt thoát mười pháp giới. Nay chúng ta hiểu
rơ: Sở dĩ cơi Thật Báo của chư Phật Như
Lai tồn tại là v́ tập khí vô thỉ vô minh chưa
đoạn sạch, nên các Ngài hiện tướng này. Khi tập
khí đoạn sạch, tướng ấy sẽ chẳng
có. Do vậy, “phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”, đức
Phật chẳng nói “trừ cơi Thật Báo của chư Phật
Như Lai ra”, chẳng nói câu ấy. Chẳng nói câu ấy th́
nói cách khác là cơi Thật Báo cũng vậy, cũng là chẳng
thật. Tập khí vô thỉ vô minh đoạn sạch, sẽ
là h́nh dạng ra sao? Vẫn c̣n có, trong Tịnh Độ gọi
là cơi Thường Tịch Quang hiện tiền. Thường
Tịch Quang là tự tánh của chúng ta. Thường Tịch
Quang là Bổn Tế. Thường Tịch Quang chính là Bổn
Tâm đang được nói ở đây. Ở đây, Thường
Tịch Quang được gọi là “Thật Tế lư thể”,
quy về Thường Tịch Quang. Thường Tịch là
nói về tự tánh.
Huệ
Năng đại sư minh tâm kiến tánh là thấy ǵ vậy?
Thấy Thường Tịch Quang. Ngài mô tả Thường
Tịch là như thế nào, chứ các nhà khoa học chẳng
thể nói được!
- Thứ nhất
là thanh tịnh, “nào ngờ tự
tánh, vốn tự thanh tịnh”, mảy may ô nhiễm cũng
chẳng có, chưa hề bị ô nhiễm. Trong lục
đạo chẳng ô nhiễm, trong địa ngục A Tỳ
cũng không ô nhiễm, chân tánh của quư vị trước
nay chưa hề bị ô nhiễm.
- Thứ hai là
“vốn chẳng sanh diệt”,
bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng.
- Thứ ba là “vốn tự trọn đủ”.
Trong Thường Tịch Quang, thứ ǵ cũng đều
không có. Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng
phải là tinh thần, cũng chẳng phải là hiện tượng
tự nhiên, nhưng những thứ ấy đều ẩn
tàng trong đó, chẳng tỏ lộ ra. Vốn tự trọn
đủ, giống như máy TV. Chúng ta tắt nguồn điện
th́ thứ ǵ cũng chẳng có, nhưng quư vị chẳng
thể nói là nó không có. Quư vị bật điện lên, nó bèn
xuất hiện. Nhà Phật gọi điều này là “ẩn hiển”. Trong Thường
Tịch Quang, [những h́nh tướng, hiện tượng]
đều ẩn, thứ ǵ cũng chẳng có.
- Nếu gặp
duyên, “có thể sanh ra vạn
pháp”. Có thể sanh ra vạn pháp là Hiển, sanh ra mười
pháp giới, sanh ra cơi Thật Báo của chư Phật là Hiển.
Khi hiển, quư vị chẳng thể nói là nó có. Khi chẳng
hiển, chẳng thể nói là nó không có. Tự tánh vốn định,
do vậy, định rất quan trọng.
- Huệ
Năng đại sư bảo: “Nào
ngờ tự tánh, vốn chẳng dao động”,
cũng là chân tâm bất động. Vọng tâm bị động,
chứ không phải là chân tâm. Chúng ta nói “khởi tâm động
niệm”, nghĩ Đông tưởng Tây là vọng tâm, chẳng
phải là chân tâm. Đấy là thức thứ sáu, tức Ư
Thức thuộc A Lại Da, phải hiểu rơ ràng! Khoa học
[vận dụng] tận hết sức lực, đúng như
đức Phật đă nói, có thể phát hiện A Lại
Da, chứ chẳng thể kiến tánh, v́ sao? Kiến tánh cần
phải buông vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống. Các khoa học gia chẳng buông những
thứ ấy xuống, nên họ chẳng thể kiến tánh.
Đạt đến cảnh giới này, khoa học chẳng
thể tiến cao hơn được nữa, vẫn
mong truy tầm, khảo sát bản thể vũ trụ, nhưng
chẳng t́m được. Chắc chắn là t́m không
được! Buông xuống sẽ t́m được. Chuyện
này đ̣i hỏi phải có công phu định lực. V́ thế,
Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác chính là diệu hạnh
giáo hóa của đức Phật.
“Nhất
cú A Di Đà, dĩ chi trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự
tâm, thị tức y giáo tu hành dă” (Một câu Di Đà dùng trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh
tự tâm th́ chính là “y giáo tu hành”). Đây là quy về Tịnh
Độ Tông, quy về phương pháp tu hành được
giảng trong bộ kinh này, tức là một câu A Di Đà, “Phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Đặc
biệt, trong xă hội hiện tiền, tai nạn rất
nhiều, chúng ta buông xuống vạn duyên, buông xuống hết
thảy, thật sự buông xuống giống như Thích Ca
Mâu Ni Phật, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật,
trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng đều chẳng
có, tâm quư vị vui sướng lắm, tự tại lắm!
Đấy mới là như Phương tiên sinh đă nói: “Sự hưởng thụ tối
cao trong đời người”. Chính ḿnh chắc chắn
sanh về Tịnh Độ, hễ sống thêm một ngày
trên thế giới này th́ phải thêm nỗ lực một
ngày, để làm ǵ? Nâng cao phẩm vị! Nâng cao phẩm vị
bằng cách nào? Trọn chẳng lưu luyến thế gian
này, phẩm vị của quư vị mới có thể nâng
cao. Mảy may vướng mắc đối với thế
gian này chính là sợi dây trói buộc khiến cho quư vị chẳng
thể văng sanh, quư vị đă sai rồi, hăy buông hết thảy
xuống! V́ thế, chúng ta sống trong thời đại
này, đối với một người tu hành thật sự
mong chứng quả, mong thành Phật mà nói th́ là hoàn cảnh
tốt đẹp! Lắm tai nạn là hoàn cảnh tốt đẹp,
v́ nó bức bách quư vị không dụng công cũng chẳng được,
ép quư vị không buông xuống cũng chẳng xong. Đó gọi
là Nghịch Tăng Thượng Duyên. Nếu là đời
thái b́nh thịnh trị, hết thảy đều có thể
vừa ḷng như ư, quư vị sẽ chẳng muốn rời
đi, vẫn mong sống trên thế giới này thêm vài năm
nữa. Nếu thấy hiện thời tai nạn dồn dập
như thế, trong tâm sẽ mong “ước ǵ ta văng sanh ngay
lập tức, văng sanh ngay hôm nay là tốt nhất!” Tâm thành
tựu sẽ dũng mănh, tinh tấn, khiến cho quư vị
có cái tâm cảnh giác rất cao trong hoàn cảnh, chẳng mê
hoặc mảy may nào! V́ thế, trong các buổi giảng, chúng
tôi thường nói: “Trong thế gian này, ai cũng là người
tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt”. Người
t́m đến gây chuyện, tạo chướng ngại
đều là người tốt, đều là chuyện tốt.
V́ sao? Khiến cho chúng ta chẳng c̣n mảy may lưu luyến
thế giới này. Đối với người tu hành, đó
là chuyện tốt, quyết định thành tựu trong một
đời này, lại c̣n thành tựu rất nhanh!
Tiếp
đó, sách viết: “Bất giả
phương tiện, tự đắc tâm khai” (chẳng
nhờ vào phương tiện, tự được tâm
khai). “Bất giả phương
tiện” là chẳng cần nhờ đến phương
pháp nào khác giúp đỡ, chỉ đơn độc một
câu A Di Đà Phật là được
rồi, tự được tâm khai. “Tâm khai” là khai ngộ, minh tâm kiến tánh. “Viên hiển bổn cụ chi b́nh
đẳng giác, thị dĩ Hành hiển Lư dă” (hiển
lộ trọn vẹn b́nh đẳng giác sẵn có. Ấy
là dùng Hành để hiển Lư). Chúng ta thật sự niệm,
thật sự hành, trong sự niệm Phật
của quư vị có Định, Định sanh ra Huệ.
Khi thật sự buông xuống, tâm thanh tịnh hiện tiền,
tâm b́nh đẳng hiện tiền, lẽ đâu chẳng khai
ngộ? Hễ khai ngộ, tất cả nghiệp chướng
đều tiêu. Chúng ta hăy nghĩ xem, đời Đường,
Huệ Năng đại sư thật sự khai ngộ trong
phương trượng thất của Ngũ Tổ, nghiệp
chướng tiêu sạch, v́ sao vẫn phải ẩn núp
trong phường thợ săn mười lăm năm, pháp
duyên mới thành thục, v́ sao? Nghiệp chướng của
chính ḿnh đă tiêu rồi, nhưng phước báo của chúng
sanh chưa hiện tiền, chúng sanh có nghiệp chướng,
nên chẳng có cách nào! Quư vị không có cách nào tiêu nghiệp
giùm họ được! Ắt phải [chờ đến
lúc] nghiệp chướng của chúng sanh cũng tiêu mất
th́ quư vị mới có thể giúp đỡ họ. Điều
này được gọi là ǵ? “Phật
chẳng độ kẻ vô duyên”. Chúng sanh có nghiệp,
chúng sanh đáng thương, vẫn chưa thể tiếp
nhận, quư vị đành phải thong thả chờ đợi
họ, Huệ Năng đại sư có thể chờ
mười lăm năm. Sau đấy, các vị Bồ
Tát giúp đỡ Ngài. Ngài Ấn Tông là Bồ Tát, rất phi
phàm, chẳng có tí xíu tâm ghen ghét nào, Ngài là Bồ Tát, chẳng
phải là phàm nhân. Có tâm ghen ghét sẽ chèn ép, luôn mong khống
chế, lợi dụng, chiếm hữu Lục Tổ để
tạo tiếng tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh. Ngài
Ấn Tông không như thế, nhận biết đại
sư thật sự đắc pháp từ chỗ ngài Hoàng
Mai, là vị pháp sư được truyền y bát, lúc đó,
Lục Tổ vẫn c̣n là một cư sĩ chưa xuống
tóc, Ấn Tông bèn quy y cho đại sư. V́ thế, ngài Ấn
Tông là thầy quy y của Lục Tổ. Sau khi xuống tóc,
Ấn Tông bái Lục Tổ làm sư phụ, bái Ngài làm thầy.
Do vậy, Huệ Năng là thầy truyền pháp cho Ấn
Tông; mà Ấn Tông lại là thầy thế độ của
Huệ Năng. Hết sức phi phàm! Thuở ấy, tại
vùng Lănh Nam[3], Quảng Đông, ngài Ấn Tông
có danh vọng rất cao, pháp duyên rất thịnh, Ngài bái đại
sư làm thầy, tôn thầy lên cao, ngay lập tức, đại
sư bèn được nổi tiếng. Ấn Tông làm hộ
pháp cho Ngài, thỉnh Ngài giảng kinh, giáo học, ai không phục?
Ai chẳng nghe theo? Ấn Tông dẫn đầu đến
nghe, đến học. Điều này được Phật
pháp diễn tả là: “Nhất Phật
xuất thế, thiên Phật ủng hộ” (một vị
Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ).
“Hựu đắc văng sanh giả
ngộ Vô Sanh Nhẫn, tùng Thể khởi Dụng, phục dĩ thử
b́nh đẳng diệu pháp, b́nh đẳng phổ độ
nhất thiết chúng sanh, văng sanh Tịnh Độ, đồng
chứng Đại Giác, phục thị tùng chúng hạnh hiển
Lư dă” (Hơn nữa,
được văng sanh bèn ngộ Vô Sanh Nhẫn, từ Thể
khởi Dụng, lại dùng diệu pháp b́nh đẳng này
b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh
văng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Đại Giác. Đấy
cũng chính là từ các hạnh hiển lư vậy). Văng sanh mới thật sự chứng đắc
Vô Sanh. Địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn rất cao! Theo
kinh Đại Thừa đă giảng, hàng Đăng Địa
Bồ Tát[4] mới chứng đắc, nhưng
thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn là từ
Thất Địa trở lên. Vô Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Thật
ra, nay chúng ta cũng biết, hiện thời chúng ta chưa
phải là chứng ngộ, mà là giải ngộ. Chẳng phải
là chứng ngộ th́ chưa dùng được, chẳng
phải là cảnh giới của chúng ta. Chúng ta biết đích
xác, v́ sao? Quư vị đọc đoạn đối thoại
giữa Di Lặc Bồ Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật, sẽ biết
hết thảy các pháp bất sanh, hết thảy các pháp bất
diệt. Nhẫn (忍)
là quư vị thừa nhận, đồng ư, tán thành: Hết
thảy các pháp thật sự bất sanh. Pháp là ǵ? Di Lặc
Bồ Tát đă giảng: “Trong
một khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn
niệm, niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” là hiện tượng vật chất. “H́nh đều có thức”, thức
là hiện tượng tinh thần. Hiện tượng
tinh thần và hiện tượng vật chất do đâu
mà có? Do huyễn tướng từ ư niệm liên tục tích
lũy lại! Cách nói này là cách nói của các khoa học gia Lượng
Tử, v́ họ cũng phát hiện vật chất và tinh thần
đột nhiên phát sanh, trong Không sanh ra Có, thời gian rất
ngắn ngủi, vừa sanh ra liền bị tiêu diệt, chẳng
c̣n nữa. Đấy là hiện tượng Vô Sanh. Khoa học
gia dùng máy móc để chứng đắc, vẫn chưa thật
sự hiểu rơ ràng, nhưng người tu hành do công phu
định lực chứng đắc, công phu định
lực là ǵ? Tâm thanh tịnh hiện tiền. Khoa học gia
giống như chúng ta, chưa rời khỏi phân biệt, chấp
trước, nhờ vào máy móc để quan sát t́nh h́nh vật
chất là như thế đó.
V́
thế, các nhà khoa học nói: Dựa trên sự nghiên cứu
nguyên tử và các hạt cơ bản, đạt đến
kết luận cuối cùng, trong vũ trụ chẳng có những
thứ vật chất ǵ cả! Hiện tượng vật
chất và tinh thần đều là một hiện tượng
tích lũy liên tục của ư niệm. V́ thế, trong khi giảng
kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi thường xuyên nhắc nhở các
đồng học: Hiện tượng ấy là hiện
tượng gần giống như liên tục (tương
tự tương tục tướng), chẳng phải là
thật sự liên tục, mà thật sự là sanh khởi
trong mỗi niệm, hiện tượng vật chất và
hiện tượng tinh thần đều độc lập,
niệm trước và niệm sau khác nhau, niệm niệm
đều khác nhau, chúng là tương tự, chẳng phải
là hoàn toàn giống nhau. V́ thế, chẳng thể nói là “liên
tục”, mà nói là “tương tự tương tục”. Do đó,
tôi cảm thấy các nhà khoa học nói như vậy rất
hay, họ nói là “tích lũy”. [Các hiện tượng vật
chất và tinh thần] đều là huyễn tướng của
ư niệm được tích lũy liên tục; cách nói này rất
khá, giảng rất rơ ràng. Quư vị thật sự thừa
nhận Vô Sanh Nhẫn, biết những thứ ấy (các
hiện tượng tinh thần và vật chất) chẳng
phải là thật, kể cả thân thể chúng ta, quư vị
liền an tâm. An tâm liền tự tại. Hễ an tâm, các tế
bào trong toàn bộ thân thể sẽ khôi phục b́nh thường.
Quư vị chẳng an ḷng, hôm nay nghĩ tới chỗ này, ngày
mai nghĩ đến gan, hôm sau lại nghĩ đến phổi,
hôm sau nữa lại nghĩ đến tim, trong ḷng luôn căng
thẳng. Căng thẳng sẽ như thế nào? Dễ
sanh ra bệnh tật, tế bào bèn sanh ra sự biến hóa.
Quư vị biết hết thảy đều b́nh thường,
hễ sanh ra liền lập tức diệt, căn bản là
quư vị chẳng c̣n nghĩ tới nó, liễu giải chân
tướng sự thật, mặc kệ nó! Toàn bộ sẽ
khôi phục b́nh thường, những tế bào vốn mắc
bệnh sẽ khôi phục b́nh thường. Do vậy, đây
là chỗ tốt đẹp tối thiểu do học Phật,
học được điều ǵ? Quư vị chẳng ngă
bệnh! Tôi lại bảo quư vị: Quư vị chẳng chết,
sanh tử là giả. Đó là thật, chẳng phải là lời
giả dối, tuyệt đối chẳng phải là mê
tín!
Do
vậy, đối với sanh tử, Phật pháp nói “liễu
sanh tử” th́ “liễu” là ǵ? Hiểu rơ! Thật sự hiểu
rơ sanh tử là chuyện ǵ, hiểu rơ ràng; v́ thế, quư vị
chẳng sợ hăi nó một chút nào! Sanh tử là chuyện ǵ?
Thay một bộ quần áo mà thôi! Thân thể vật chất
này sử dụng một khoảng thời gian đă trục
trặc rồi, trục trặc th́ thay đổi cái khác,
giống như quần áo đă mặc dơ, rách nát, hoặc
chẳng thích mặc nữa, bèn thay bộ khác, chuyện này
rất b́nh thường. Tinh thần bất diệt, không
chỉ là thay đổi, quư vị thấy thân thể này vứt
bỏ, nhưng c̣n có linh tánh. Chúng ta nói “linh hồn” th́ linh hồn
đang mê; sau khi giác ngộ chẳng gọi là “linh hồn”
mà gọi là “linh tánh”. Học Phật chẳng phải là làm
chuyện ǵ khác, mà là nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Thân thể
là cái kèm theo, linh tánh dựa vào cái thân này, thân thể chẳng
có tí xíu bệnh tật nào. Do linh hồn có mê, mê rồi nên nó
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
linh tánh chẳng mê. Do vậy, sẽ h́nh thành “Kim Cang bất hoại thân” như
kinh Phật đă nói, chuyển mê thành ngộ là Kim Cang bất
hoại thân. “Từ Thể khởi
Dụng” là ǵ vậy? Ứng hóa trên thế gian là từ
Thể khởi Dụng. Lại dùng phương pháp này, tức
là dùng phương pháp “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để
b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh.
Phương pháp này tuyệt diệu, “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” ở ngay trong một câu A Di Đà Phật.
Toàn bộ câu A Di Đà Phật này là tiếng Phạn, có thể
dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để dịch ư
nghĩa của nó. A Di Đà Phật nghĩa là ǵ? “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, dùng phương pháp này để
độ hết thảy chúng sanh, giúp họ văng sanh thế
giới Cực Lạc cùng chứng Vô Thượng Bồ
Đề, Đại Giác là Vô Thượng Bồ Đề,
là quay về tự tánh. Đấy là từ các hạnh để
hiển Lư. Các hạnh gồm nhiều hạnh môn, kể cả
cuộc sống hằng ngày và công việc của chúng ta, xử
sự, đăi người, tiếp vật, toàn là A Di Đà
Phật, hoàn toàn là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Điều
khẩn yếu là chúng ta phải thật sự hiểu rơ, thật
sự biết dùng, biết dùng phương pháp đơn
giản nhất là trong cuộc sống, trong công việc, trong
xử sự đăi người, tiếp vật, trong tâm có
A Di Đà Phật. Trong tâm trừ A Di Đà Phật ra, thứ
ǵ cũng đều không có. Câu này (tức câu “từ Thể khởi Dụng”)
có ư nghĩa như vậy đó. Trong tâm chẳng cần nghĩ
đến “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chỉ nghĩ
tới A Di Đà Phật, bốn chữ đơn giản
là được rồi, sẽ nhập cảnh giới ấy.
Vận dụng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” vào cuộc
sống, công việc, đăi người, tiếp vật, do
các hạnh mà hiển Lư, đấy là tự tánh.
“Nhược dĩ kinh đề
phối Tam Đại” (nếu đem tựa đề
kinh phối hợp với Tam Đại), Tam Đại là Thể,
Tướng, Dụng. Trong tựa đề kinh có những
ư nghĩa ấy hay không? “Vô
Lượng Thọ thị Thể đại, Trang Nghiêm Thanh
Tịnh thị Tướng đại, B́nh Đẳng Giác
thị Dụng đại” (Vô Lượng Thọ là Thể
đại, Trang Nghiêm Thanh Tịnh là Tướng đại,
B́nh Đẳng Giác là Dụng đại), thật sự có
ư nghĩa Tam Đại, rất rơ rệt. Chúng ta đọc
phần tiếp theo: “Y Hán dịch
Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác tức A Di
Đà Phật nghĩa”
(Căn cứ theo bản Hán dịch, Vô Lượng Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác tức là ư nghĩa của chữ A Di Đà Phật).
Trong năm bản dịch gốc, bản dịch đời
Hán có tựa đề là Vô Lượng
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh; tựa đề này là
dịch theo nghĩa, nguyên văn tiếng Phạn là A Di
Đà. “Cánh khả dĩ bổn
kinh đề phối tam giác. Vô Lượng Thọ Phật
thị ngă Bổn Giác. Phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm, dĩ trang nghiêm tự tâm thị
danh Thỉ Giác. Thỉ Giác hợp Bổn Giác, trực xu Cứu
Cánh Giác, tức đề trung Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác
dă” (ta có thể đem tựa đề kinh này phối hợp
với Tam Giác. Vô Lượng Thọ Phật là Bổn Giác
của ta. Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm
để trang nghiêm tự tâm là Thỉ Giác. Thỉ Giác hợp
với Bổn Giác, tiến thẳng đến Cứu Cánh
Giác chính là Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác trong tựa đề
kinh). Đây là phối hợp với ba món Giác: Thỉ Giác, Bổn
Giác, và Cứu Cánh Giác. Trong đó, Bổn Giác là Lư thể, Thỉ
Giác là bắt đầu tu hành. Chúng ta suốt ngày mê muội,
bất giác, quư vị phải hiểu: Niệm Phật là giác
chứ không mê. Nhưng quư vị phải biết: Nếu không
hiểu, mà chẳng nghe kinh, chẳng học giáo, quư vị niệm
câu A Di Đà Phật này vẫn là mê hoặc, điên đảo,
mê tín, A Di Đà Phật là ǵ? Không biết! Người ta nói
A Di Đà Phật là ǵ? “Tượng Phật được
thờ trong nhà tôi là A Di Đà Phật”, kẻ ấy bèn chỉ
vào tượng đó, về căn bản chẳng biết
A Di Đà Phật là ǵ! A Di Đà Phật là tự tánh, là bổn
tánh của chính ḿnh, là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” chính
ḿnh vốn sẵn đủ. Liễu giải th́ khi niệm
sẽ tương ứng, giống như phương pháp
được gọi là Tam Mật Tương Ứng trong
Mật Tông:
Tiếp
đó là: “Hựu khả giải
vi B́nh Đẳng Giác thị ngă Bổn Giác. Khởi tâm niệm
Phật, dĩ tự trang nghiêm, thị vi Thỉ Giác. Thỉ
Bổn bất ly, trực xu giác lộ, đốn nhập Tịch
Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như thị tắc
B́nh Đẳng Giác thị ngă nhân tâm, Vô Lượng Thọ
thị ngă Quả Giác. Như thị diệu nghĩa triển
chuyển vô tận, tất tại nhất đề chi
trung” (Lại có thể hiểu
như sau: B́nh Đẳng Giác là Bổn Giác của ta, khởi
tâm niệm Phật để tự “trang nghiêm” là Thỉ
Giác. Thỉ, Bổn chẳng rời nhau, thẳng tiến
trên đường giác ngộ, chóng vào được Tịch
Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như vậy, B́nh Đẳng
Giác là nhân tâm (cái tâm dùng làm nhân, cái tâm tu nhân) của ta, Vô
Lượng Thọ là Quả Giác của chúng ta). Diệu
nghĩa được phát triển đến vô tận như
thế, nhưng đều nằm gọn trong tựa đề). Những ư nghĩa ấy đều bao gồm
trong tựa đề kinh, trong tựa đề kinh bao hàm vô
lượng nghĩa, thật vậy, chẳng giả! “Thị cố Viên Trung Sao sớ
viết: ‘Văn thủ đề danh tự, hoạch vô
lượng công đức’. Sao viết: Như Kim Quang Minh,
cập chư Đại Thừa, đa tác thử thuyết”
(V́ vậy, trong sách Viên Trung Sao có lời sớ như sau:
“Nghe tựa đề kinh được vô lượng
công đức”. Lời Sao giảng: “Như kinh Kim Quang Minh
và các kinh Đại Thừa khác phần nhiều nói như
vậy”). Từ các bản chú sớ kinh Đại Thừa
của cổ đức, chúng ta thấy nói như vậy rất
nhiều! Không chỉ là tựa đề kinh trọn đủ
viên măn vô lượng nghĩa, mà trong các buổi giảng,
chúng tôi đă từng báo cáo cùng quư vị: Một câu A Di
Đà Phật trọn đủ vô lượng nghĩa.
Trong một câu A Di Đà Phật dung nhiếp trọn vẹn
tựa đề của mười hai bộ kinh, [nói “mười
hai bộ kinh” ở đây] là nói tới mười hai bản
dịch gốc [của kinh Vô Lượng Thọ]. Mỗi
tựa đề đều được bao gồm trong
Phật hiệu. V́ vậy, quư vị niệm một câu Phật
hiệu này là niệm trọn hết tựa đề của
mười hai bộ kinh, niệm tựa đề là niệm
toàn bộ bản kinh. Niệm toàn bộ kinh này sẽ giống
như niệm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm và hết thảy các
kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi
chín năm, chẳng sót một bộ nào! Chúng ta học phần
giải thích tựa đề kinh của cụ Hoàng Niệm
Tổ đến đây [là xong].
Tiếp theo đây,
tôi sẽ đơn giản giới thiệu cách tôi giảng
tựa đề bộ kinh này như thế nào khi tôi giảng
kinh này trong quá khứ. Hiện thời, chúng tôi giảng bộ
kinh này lần thứ mười một, trước kia đă
giảng mười lần, nhưng cả mười lần,
chúng tôi không giảng bản Chú Giải của cụ Hoàng
Niệm Tổ, chỉ là giảng kinh, chẳng giảng chú
giải. Tham khảo chú giải, sử dụng một phần,
c̣n lần này là học tập bản Chú Giải chẳng
sót một chữ nào. “Phật
Thuyết Đại Thừa”, Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật
nói, ư nghĩa này rất rơ rệt. Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật,
Bổn Sư. “Thuyết” là
thỏa thích điều từng ấp ủ trong ḷng. Đức
Phật xuất hiện trên thế gian này, nhằm mục
đích ǵ? V́ rộng độ chúng sanh, giúp chúng sanh mau chóng
thành Phật. Dùng phương pháp ǵ để giúp chúng sanh có
thể thành Phật trong một đời? Bằng pháp môn
này, bằng bộ kinh này! Đức Phật thấy chúng sanh
cơ duyên thành thục; cơ duyên là ǵ? Họ có thể tin,
nghe hiểu, lư giải. Sau khi nghe hiểu, họ sẽ chịu
làm, chịu phát nguyện văng sanh, cơ duyên đă chín muồi!
Phật bèn giảng bộ kinh này cho mọi người, nhằm
măn nguyện của quư vị, một đời này, quư vị
chắc chắn sẽ được như nguyện, sanh
về thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật,
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới tu
hành chứng quả, thành Phật độ sanh giống như
Ngài. Đấy là ư nghĩa của hai chữ Phật Thuyết.
“Đại Thừa” là trí huệ,
v́ trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa
Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Tôi [dùng điều đó để] dung thông, phối hợp
với tựa đề kinh này th́ “Đại Thừa” là trí huệ sẵn có trong bổn
tánh, “Vô Lượng Thọ”
là tự tánh trọn đủ các đức, “Trang Nghiêm” là tự tánh vốn
trọn đủ tướng hảo. Trí huệ và đức
tướng là quả. Quả đương nhiên có nhân,
nhân là ǵ? Nhân là “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Tu ba nhân ấy, quư vị sẽ chứng
quả Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm,
tức Phật quả. Thanh tịnh: Người học Phật
chúng ta tu ǵ? Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Dùng phương
pháp ǵ để tu? Tám vạn bốn ngàn pháp môn! Tám vạn
bốn ngàn là phương pháp, đường lối. Tu ǵ?
Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, kinh này trực tiếp
chỉ dạy chúng ta. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là
Tam Học, Tam Huệ. Tam Học là Giới - Định -
Huệ, thanh tịnh là Giới, b́nh đẳng là Định,
giác là Huệ, Giới - Định - Huệ Tam Học. “Thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tam Tạng, mười hai
bộ kinh (thể loại kinh) trong Tam Tạng. Thanh tịnh
là Luật Tạng, b́nh đẳng là Kinh Tạng, giác là Luận
Tạng. Quư vị thấy đó là Tam Học, Tam Tạng. Lại
c̣n là Tam Bảo, thanh tịnh là Tăng Bảo, lục
căn thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần là Tăng
Bảo, tức người tŕ giới. Hiện thời xuất
hiện vấn đề: Tại gia học Phật chẳng
thể hành Thập Thiện Nghiệp đạo, xuất
gia học Phật chẳng làm được Sa Di Luật Nghi,
nên vấn đề xuất hiện! V́ thế, bất luận
tại gia hay xuất gia học Phật cũng đều chẳng
thể thành tựu. Trong vài chục năm qua, chúng tôi thấy
vấn đề này quá nhiều, nghĩ bao nhiêu năm mới
nghĩ ra v́ sao có hiện tượng ấy, v́ sao cổ
nhân chẳng giống như vậy? Cổ nhân dù tại gia
hay xuất gia đều có thể tu hành chứng quả, v́
sao người hiện tại lại không được?
Suy
đi nghĩ lại, cuối cùng t́m ra cội rễ của
vấn đề. Kể từ sau khi nhà Măn Thanh mất nước
cho đến hiện tại, trong một trăm năm thuộc
thế kỷ này, chúng ta đă sơ sót không vun bồi căn
bản giáo dục. Trước kia, quả thật là hai mươi
năm đầu thời Dân Quốc, tức là hai mươi
năm sau khi nhà Măn Thanh mất nước, vẫn c̣n ảnh
hưởng, người trong xă hội thuở ấy vẫn
c̣n phổ biến coi trọng giáo dục luân lư, đạo
đức, nhân quả, hết sức coi trọng! Chúng tôi
thuở bé cũng được hưởng lây một chút,
vun bồi căn bản giáo dục rất trọng yếu.
Cổ ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Giáo nhi anh hài, giáo phụ sơ lai” (dạy con từ
thuở c̣n thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới
về), dạy con cái là dạy ra sao? Từ thuở trứng
nước, con sanh ra gọi là “anh
hài”. Dạy con dâu, khi cưới vợ về, vừa vào
cửa liền dạy dỗ, dạy vợ từ thuở
ban đầu; nếu không, vợ sẽ dưỡng thành
thói quen, chẳng nghe lời quư vị. Con thơ từ lúc được
sanh ra phải dạy dỗ. Nó sanh ra, mở mắt ra sẽ
thấy, tai sẽ nghe tiếng, tuy nó chưa thể nói chuyện,
nhưng đă học tập, học ǵ vậy? Học theo người
lớn. Đầu tiên là cha mẹ mỗi ngày dẫn dắt
nó. Cha mẹ khởi tâm động niệm, lời nói, việc
làm, cử chỉ đối với nó đều có ấn
tượng. Một ngh́n ngày từ lúc được sanh
ra cho đến ba tuổi được gọi là “vun bồi
căn bản giáo dục”. Có được một ngh́n ngày
ấy, cổ nhân bảo “tam tuế
khán bát thập”; [nghĩa là] dạy dỗ kỹ càng một
ngàn ngày [từ lúc sanh ra] cho đến lúc ba tuổi th́ tám
mươi tuổi sẽ không thay đổi, có căn bản
rồi! Đầu thời Dân Quốc, xă hội Trung Quốc
chẳng an định, quân phiệt cát cứ, tiếp đó,
chiến tranh với người Nhật. Sau tám năm kháng
chiến, Trung Quốc chiến bại, chẳng có chiến
thắng, bại ở chỗ nào? Vứt bỏ truyền
thống văn hóa Trung Quốc, chẳng c̣n gia giáo. Không chỉ
chẳng có gia giáo, mà gia tộc cũng chẳng c̣n! Hăy nên biết
Trung Quốc thời cổ là đại gia đ́nh, ngũ đại
đồng đường[5], chẳng tách thành tiểu gia đ́nh.
V́ thế, mỗi nhà có gia quy, có gia đạo, gia học,
gia nghiệp. Sau khi kháng chiến thắng lợi, toàn bộ
đều chẳng c̣n. Đấy là chúng ta bị đánh bại,
bề ngoài là thắng lợi, chứ thật sự là bị
đánh bại!
Nếu
thật sự chiến thắng, xă hội ngày nay sẽ ổn
định vững bền, phải thịnh vượng giống
như thuở Hán, Đường, đại quốc mênh
mông. V́ sao ngày nay chúng ta vẫn khổ sở, xă hội
động loạn như thế, đấy là chiến bại,
bề ngoài là thắng lợi, chứ trên tinh thần đă
xong hết cả rồi, chúng ta chớ nên không biết nguyên
nhân ấy! Do vậy, tôi đă nghĩ học Phật th́ phải
t́m lại sự vun bồi căn bản giáo dục ấy.
Dùng ǵ để vun bồi? Dùng ba căn bản của Nho,
Thích, Đạo, mọi người đă sơ sót những
điều này. Căn bản của Nho là Đệ Tử
Quy, căn bản của Đạo là Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên, căn bản của Phật là Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Nếu ba căn bản này đă được
dạy dỗ tốt đẹp từ nhỏ, th́ Sa Di Luật
Nghi rất dễ dàng, v́ mỗi điều đă nói trong Thập
Thiện Nghiệp đă đều có thể làm được.
Lúc ấy mới khiến cho chúng tôi nghĩ ra v́ sao người
thuở trước học Phật dễ thành tựu như
vậy mà hiện thời không được, hiện thời
vun bồi căn bản giáo dục do ai dạy? TV dạy!
Học sinh lên lớp học theo Internet. Dạy ǵ? Dạy bạo
lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối! Căn bản
để học Phật của quư vị được
vun bồi bằng bạo lực, t́nh dục, giết, trộm,
dâm, dối, làm sao quư vị học Phật tốt đẹp
cho được? Xă hội làm sao yên ổn cho được?
Có thể nào chẳng xảy ra tai nạn? Toàn bộ vấn
đề đă được bộc lộ, chúng ta thấy
rơ ràng, rành rẽ. V́ thế, nhiều năm qua, chúng tôi cực
lực đề xướng phải học ba căn bản,
nhằm học bù đắp những chỗ sai sót. Học
Phật là học từ đâu? Học từ Đệ Tử
Quy, không làm được Đệ Tử Quy th́ quư vị
học Phật một trăm năm, hay ba trăm năm
đều vô dụng, thiếu căn bản! Nếu làm được
Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ
chẳng có vấn đề. Quư vị không vun bồi cội
rễ ở chỗ này, đúng là [học Phật] ba
trăm năm, tối đa bất quá là trở thành học
giả mà thôi. Tối đa là giống như tôi đă thấy
tại nước Anh, những nhà Hán học, những vị
giáo sư lừng danh, hoặc những người giống
như họ, chẳng thể thật sự thụ dụng
Phật pháp, những lợi ích trước mắt đều
chẳng đạt được, sức khỏe, trường
thọ, phiền năo nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng,
đó là những ǵ [lẽ ra] quư vị phải đạt được
trong hiện tiền, nhưng quư vị vẫn lắm phiền
năo, thiếu trí huệ, c̣n làm sao được nữa? Sai
lầm rồi! Sai lầm do coi nhẹ căn bản. Vun bồi
căn bản giáo dục trọng yếu lắm; may sao là
trong mấy năm nay, trong nước đă dần dần
coi trọng Đệ Tử Quy, dần dần cũng coi
trọng Cảm Ứng Thiên, tốt lắm! Quốc gia, dân
tộc vẫn c̣n có tiền đồ.
Trong
phần trước, chúng ta đă nói tới sự trọng
yếu của Phật; Phật là phước báo bậc nhất
trong thế gian và xuất thế gian. Quư vị chẳng học
Phật sẽ không tu phước. Chẳng tu phước sẽ
chẳng có phước báo, thiếu phước báo sẽ
khổ sở. Đại phú đại quư trong thế gian
này là do tu từ đâu? Đời quá khứ đă tu trong Phật
môn, trong Phật môn có thể tu cái nhân đại phú đại
quư, cảm được quả báo phú quư. Hiện tại,
hưởng phú quư, nhưng chẳng tu nữa, phước
báo sẽ hưởng hết rất nhanh. Sau khi hưởng
hết, khổ nạn sẽ hiện tiền. Đấy là
đạo lư nhất định, chớ nên không biết. V́
thế, sau khi vun bồi tốt đẹp ba căn bản,
quư vị lại khéo học Phật, phước huệ
song tu, tiền đồ sẽ tốt đẹp vô lượng,
cớ sao chẳng làm? Bởi lẽ, nhà Phật tu hành là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, thanh tịnh là Chánh Giác, b́nh
đẳng là Chánh Đẳng Chánh Giác, sau đấy là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong giáo pháp Đại Thừa, từ
trong kinh điển, chúng ta thường đọc thấy
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tức là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”. Do vậy, tu thanh tịnh như
thế nào? Chẳng chấp trước, đoạn Kiến
Tư phiền năo là thanh tịnh. Chẳng phân biệt, đoạn
Trần Sa phiền năo bèn b́nh đẳng. Không khởi tâm, chẳng
động niệm, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác liền hiện tiền, đạt được quả
báo Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. “Trang Nghiêm” có ư nghĩa vô cùng rộng!
Thường Tịch Quang, cơi Thật Báo Trang Nghiêm, y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thảy đều
hàm nhiếp trong ấy. Đây là nói đại lược
về tựa đề bộ kinh này.
Tôi nói kiểu
này đơn giản, dễ hiểu, dễ lănh hội, quư
vị mới biết nội dung giáo học trong bộ kinh
này phong phú khôn sánh, thật sự giúp chúng ta giải quyết
hết thảy vấn đề. Bất cứ một nghề
nghiệp nào trong xă hội nẩy sanh vấn đề, đều
có thể t́m được lời giải quyết trong đây.
Về chánh trị, cũng chẳng phải là ngoại lệ,
đều có thể giúp quư vị giải quyết những
chỗ nẩy sanh vấn đề. Cớ sao quư vị chẳng
học? Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tập tới chỗ này!
Tập 82
“Chánh thích kinh nghĩa” (chính thức
giải thích ư nghĩa kinh văn), đây là phần lớn
thứ ba trong [bản Chú Giải] kinh này, chính thức giải
thích ư nghĩa trong kinh văn. “Tiền
minh toàn kinh cương tông” (trong phần trên, đă nói về
cương lănh và tông chỉ của cả kinh), nêu cương
lănh và tông chỉ, “dữ kinh
đề tổng nghĩa” (và ư nghĩa tổng quát của
tựa đề kinh). “Cẩn
dĩ cục tâm hạn lượng chi ngôn, lược
chương Tịnh Tông vô tận chi diệu” (kính cẩn dùng cái tâm hạn hẹp
để phô bày đại lược sự mầu nhiệm
vô tận của Tịnh Tông), đây là lời khiêm hư của
cụ Hoàng Niệm Tổ. “Cục tâm hạn lượng” ư nói: Chưa khai ngộ, tâm lượng phàm
phu. Sau khi khai ngộ, tâm lượng sẽ giống như
Phật, Bồ Tát, quả thật là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm trọn
khắp hư không, tâm lượng rộng khắp các cơi
nhiều như cát). “Cục”
(局) là có giới hạn, “cục tâm hạn lượng”
là tâm lượng và kiến giải phàm phu. “Lược chương Tịnh Tông”, đây là một
bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh
Tông, quả thật là vô tận diệu nghĩa. “Tư y tiên lệ, toàn kinh phân
tam” (nay dựa theo lệ trước, chia toàn bộ kinh
này thành ba phần), “tiên lệ”
là thông lệ giảng giải kinh văn của cổ thánh
tiên hiền, luôn chia một bộ kinh thành ba phần lớn,
tức là ba bộ phận. Bộ phận thứ nhất gọi
là Tự Phần, bộ phận thứ hai là Chánh Tông Phần,
bộ phận thứ ba gọi là Lưu Thông Phần. Tự
(序) là như trong các tác phẩm
văn chương hiện thời, phía trước có phần
Tự Luận (dẫn nhập), giữa là Chánh Thuyết (nội
dung chánh yếu), sau đó là Tổng Kết, ba đoạn
lớn như vậy. Trong kinh Phật, bản thân mỗi
kinh có ba đoạn, thứ nhất là Tự, sau Tự là
Chánh Tông, sau Chánh Tông là Lưu Thông, [phần này] cũng gần
như quá nửa là đức Phật dặn ḍ chúng ta nên
thực hiện nghĩa lư, giáo huấn và cảnh giới của
bộ kinh này như thế nào trong cuộc sống hằng
ngày, nâng cao chính ḿnh, thậm chí thực hiện trong công việc,
trong toàn bộ công tác. Đây là dạy quư vị sau khi chính
ḿnh đă thành tựu, c̣n phải tạo ảnh hưởng
người khác, mong cho người khác cũng có thể tu
học, cùng nâng cao cảnh giới giống như chính ḿnh.
Đấy là Lưu Thông Phần.
“Ngẫu Ích đại sư viết:
Tự như thủ, ngũ quan câu tồn. Chánh Tông như
thân, phủ tạng vô khuyết. Lưu Thông như thủ
túc, vận hành bất trệ” (Ngẫu Ích đại sư nói: “Tự như
đầu, ngũ quan đầy đủ. Chánh Tông như
thân, phủ tạng chẳng thiếu, Lưu Thông như
chân tay, vận hành không trệ ngại”). Thuở tại thế,
suốt đời Ngẫu Ích đại
sư cũng giảng kinh giáo học. Ngẫu Ích đại
sư là người xuất gia thuở trước, sống
vào những năm cuối triều Minh và những năm đầu
triều Thanh. Ngài sống vào cuối đời Minh, viên tịch
trong đời Thanh, là tổ sư đời thứ chín của
Tịnh Độ Tông. Trước tác vô cùng phong phú, tuy tuổi
tác chẳng cao lắm, sáu mươi mấy tuổi đă viên
tịch, nhưng Ngài lưu lại trước tác vô cùng phong
phú, đúng là trước tác suốt cả đời. Đối
với chuyện giải thích kinh chia thành ba phần, Ngài đă
nêu thí dụ, dùng con người chúng ta làm tỷ dụ: Tự
Phần giống đầu người, ngũ quan đầy
đủ, vừa nh́n thấy vẻ mặt liền biết
quư vị là người như thế nào. Kế đó là
Chánh Tông giống như thân thể, bên trong có ngũ tạng,
lục phủ. Lưu Thông Phần giống như tay chân,
quư vị có thể hoạt động, có thể khởi
tác dụng. Tiếp đó, cụ Niệm Tổ nói: “Y đại sư ư, Tự
như thủ (đầu dă) chỉ kinh chi Tự Phần
do nhân chi hữu thủ. Do thủ chi ngũ quan (mi, nhăn,
nhĩ, tỵ, khẩu) khả khuy kỳ nhân chi thiện,
ác, trí, ngu” (Theo ư
đại sư, “Tự như đầu” tức
là Tự Phần của kinh giống như người có
đầu, từ ngũ quan (lông mày, mắt, tai, mũi, miệng)
có thể biết được phần nào con người
ấy là thiện hay ác, trí hay ngu), quư vị
vừa nh́n liền hiểu rơ. “Quán
nhất kinh chi Tự phẩm, tiện khả tri toàn kinh chi
Đại, Tiểu, Thiên, Viên” (Nh́n vào Tự Phần
của một bộ kinh, liền có thể biết toàn bộ
bản kinh ấy là Đại Thừa hay Tiểu Thừa,
Thiên Giáo hay Viên Giáo). Từ Tự Phần, quư vị có thể
thấy, trong Tự Phần có ư nghĩa
biểu thị pháp. Nếu quư vị hiểu, vừa nh́n vào
Tự Phần sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ [những ư
nghĩa biểu thị pháp ấy]. “Cố Tự Phần trung, diệc tất hàm hữu
thâm văn” (V́ thế trong Tự Phần ắt phải
có những đoạn kinh văn ư nghĩa sâu xa). Điều này chẳng sai tí nào! Trong Tự
Phần chứa đựng những ư nghĩa sâu xa, quyết
định chẳng khác ǵ Chánh Tông và Lưu Thông. “Kim y đại sư chi chỉ,
phán phân bổn kinh như hạ” (Nay y theo ư chỉ
của đại sư, phân định kinh này như sau),
chia làm ba phần:
1) Phần thứ
nhất từ phẩm thứ nhất tới phẩm thứ
ba, đó là Tự Phần
2)Từ phẩm
thứ tư đến phẩm bốn mươi hai là Chánh
Tông Phần, tức là phần diễn nói chánh yếu trong
kinh này.
3) Từ phẩm
bốn mươi ba đến phẩm bốn mươi
tám là Lưu Thông Phần. Phần này rất dài, đều
thuộc về phần Lưu Thông.
“Kim chi tam phần, diệc chánh như ngă quốc
Tịnh Ảnh, Gia Tường lưỡng gia đối bổn
kinh Ngụy dịch bổn chi phán phân” (Nay
ba phần này cũng chính là cách phán định của hai vị
Tịnh Ảnh và Gia Tường[6] của Trung Quốc đối với bản
Ngụy dịch của kinh này). Quy củ của lịch đại tổ sư đại đức
đều giống nhau, nhất định chia một bộ
kinh thành ba phần. Phân đoạn sớm nhất là pháp
sư Đạo An, [Ngài làm như vậy] sớm nhất.
Sau này, tuy các vị chú giải kinh đều chia chánh kinh thành
ba phần, nhưng ba phần chia từ chỗ nào trọn chẳng
giống nhau. Đó là mỗi vị có cách nh́n khác nhau, chúng
ta phải chú tâm quán sát mới hiểu được
điều này.
Tiếp theo
đây là bộ phận thứ nhất, tức Tự Phần:
“Hựu Tự Phần phục
phân vi nhị” (Lại nữa, Tự Phần lại
được chia thành hai phần), trong Tự Phần có
hai khoa lớn. Thứ nhất là Thông Tự, thứ hai là Biệt
Tự. “Thông Tự, hựu danh
Chứng Tín Tự, chư kinh giai cụ” (Thông Tự c̣n
gọi là Chứng Tín Tự, các kinh đều có), mở
đầu hết thảy kinh đều có. “Như Thiên Thai dữ Gia Tường
đẳng” (như các vị Thiên Thai, Gia Tường
v.v...), Thiên Thai là Trí Giả đại sư, ngài Gia Tường
chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Y Pháp Hoa Luận dĩ lục chủng thành tựu vi Chứng
Tín Tự. Lục thành tựu giả, Tông Mật đại
sư viết” (dựa theo
Pháp Hoa Luận[7], lấy sáu thứ thành tựu làm Chứng
Tín Tự. Sáu thứ thành tựu là như Tông Mật đại
sư nói), Tông Mật là tổ sư đời thứ
năm của tông Hoa Nghiêm, là học tṛ tổ Thanh Lương. Thứ nhất là Tín, thứ
hai là Văn, thứ ba là Thời, thứ tư là Chủ, thứ
năm là Xứ, thứ sáu là Chúng. “Lục duyên bất cụ, giáo tắc bất
hưng” (sáu duyên chẳng đủ, giáo pháp chẳng
thể hưng khởi). Đây là nói về giáo học; giáo
học nhất định phải có sáu
duyên này th́ mới có thể thành tựu.
Thiếu một điều, giáo học sẽ chẳng thể
thành tựu. V́ thế, [sáu điều ấy] gọi là Lục
Chủng Thành Tựu. Sáu thứ thành tựu:
- Thứ nhất
là Tín Thành Tựu, trong phần sau sẽ nói đến. Chữ
“như thị” trong kinh
văn là Tín Thành Tựu, nói rơ bộ kinh này quả thật
do đức Phật nói, chân thật đáng tin, đó là Tín
Thành Tựu.
- Thứ hai là
Văn. “Văn” là khi tôn giả
A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật
nói kinh này, chính tôi đích thân nghe”. Chẳng phải là nghe
nói lại, nên đáng tin cậy.
- Thứ ba là
giảng vào thời gian nào?
- Thứ tư
là do ai nói? “Chủ” là Thích Ca
Mâu Ni Phật, nhất định do đức Phật nói.
- Thứ năm,
giảng ở nơi nào?
- Thứ sáu là
khi giảng kinh bộ kinh này, có bao nhiêu người đang
nghe?
Do vậy, sự
giáo học ấy mới là viên măn, trong đó, thiếu một
điều cũng không được, giáo học cũng chẳng
thể thành tựu. V́ thế, gọi là Chứng Tín. “Dĩ chứng kinh văn, xác vi Phật
thuyết, chân thật khả tín, cố danh Chứng Tín”
(Dùng sáu điều ấy để
chứng thực kinh văn, xác quyết đây là lời Phật
dạy chân thật đáng tin; v́ thế gọi là Chứng Tín). Hai phẩm đầu trong kinh này đều
thuộc về Chứng Tín, phẩm thứ nhất là “Pháp hội thánh chúng đệ nhất”,
phẩm thứ hai là “Đức
tuân Phổ Hiền đệ nhị”. Hai phẩm này đều
là Chứng Tín, cũng đều nói về sáu thứ thành tựu.
Phẩm thứ ba mới là phần Phát
Khởi kinh này, “hựu danh Phát
Khởi tự” (c̣n gọi là Phát Khởi Tự), đó là
Biệt Tự. Chứng Tín Tự là phần đầu hết
thảy các kinh văn đều có, nên gọi là Thông Tự.
Tuy [kinh nào cũng] có, nhưng trong đó, quan trọng nhất
là người nào tham gia, tức là nêu ra đức hiệu
của các vị thượng thủ nào. Giống như
nay chúng ta nh́n vào một cuộc họp, quư vị thấy
những người nào tham dự, liền biết cuộc
họp ấy nhằm bàn thảo vấn đề ǵ! Nếu
hội nghị toàn là giới giáo dục, [tức là, người
tham gia toàn là] các nhân sĩ thuộc giới giáo dục, các vị
chủ quản giáo dục như hiệu trưởng, giáo
vụ, quản giáo vụ, nhất định họ sẽ
thảo luận [về đề tài] giáo dục. Nếu những
người tham dự hội nghị này toàn là nhân viên tài
chánh, kinh tế, mậu dịch, họ nhất định
bàn về kinh tế. Do vậy, quư vị nh́n thấy người
nào tham dự, sẽ biết pháp hội ấy thảo luận
chuyện ǵ. V́ thế, trong phần Thông Tự, [nh́n vào] tên
hiệu của các vị thượng thủ được
liệt kê khác nhau, sẽ biết tánh chất khác biệt của
bộ kinh này, thảo luận những ǵ. Phát Khởi Tự
là “phát khởi toàn kinh chi
đoan do” (đầu mối phát khởi cả bộ
kinh). V́ sao đức Phật giảng bộ kinh này, trong phần Phát Khởi Tự sẽ nói rơ nguyên nhân phát
khởi của cả bộ kinh này. “Dĩ pháp bất cô khởi, khởi tất hữu
do, chư kinh các biệt, cố hựu danh Biệt Tự”
(v́ pháp chẳng thể tự khởi lên một ḿnh. Phát khởi
phải có duyên do. Duyên do phát khởi của các kinh khác nhau,
nên lại gọi là Biệt Tự). Pháp nhất định
có nguyên nhân, chẳng thể nói không có nguyên nhân nào mà sanh khởi
được, quyết định là có nhân duyên. Nhân duyên phát
khởi của mỗi bộ kinh khác nhau; v́ thế, gọi
là Biệt Tự.
“Lệ như Tiểu Bổn A Di
Đà Kinh” (chẳng hạn như Tiểu Bổn A Di
Đà Kinh), kinh A Di Đà được phát khởi không do
ai hỏi, mà do đức Phật tự nói. Đây là chuyện
như thế nào? Pháp môn này quá trọng yếu, tuy chẳng
có ai khải thỉnh, không có ai thỉnh pháp, nhưng đức
Phật thấy hết thảy chúng sanh duyên đă chín muồi.
Duyên như thế nào sẽ được gọi là “chín
muồi”? Có người nghe rồi sẽ có thể tin tưởng,
lư giải, phát nguyện, nương theo phương pháp
này tu hành văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Tuy không có ai hỏi, nhưng đức Phật thấy
trong đại chúng có người như vậy, cho nên chẳng
cần hỏi, đức Phật tự ḿnh nói ra. Cũng chính
v́ pháp môn này là pháp khó tin, nên không ai có thể hỏi. V́ sao?
Phàm phu thành Phật trong một đời, ai có thể tin
tưởng? Nếu quư vị nói tu hành ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, vô lượng kiếp mới có thể thành tựu,
sẽ có rất nhiều người tin tưởng. Phàm
phu nghiệp chướng sâu nặng, có thể thành Phật
trong một đời, chưa hề có ai nghĩ đến
vấn đề này, cho nên không có ai hỏi; nhưng đức
Phật thấy trong các chúng sanh quả thật có căn cơ
ấy, họ thật sự hiểu, thật sự làm, sẽ
thành tựu trong một đời. Quư vị nói xem pháp môn
này có thù thắng lắm hay chăng? Pháp môn thù thắng khôn
sánh, cho nên đức Phật chẳng đợi ai hỏi,
tự ḿnh nói ra. C̣n bộ kinh này th́ “bổn kinh tắc nhân Thế Tôn phóng quang, hiện thụy”
(kinh này do đức Thế Tôn phóng quang minh, hiện tướng
lành), cuối phần Biệt Tự chúng ta có thể thấy,
[đức Phật] làm như vậy để dẫn dắt
tôn giả A Nan khải thỉnh, nêu câu hỏi. “Các kinh bất đồng, cố
danh Biệt Tự. Kim kinh đệ tam phẩm thuộc
chi” (Mỗi kinh chẳng giống
nhau nên gọi là Biệt Tự. Phẩm thứ ba của
kinh này thuộc về phần Biệt Tự), đấy
là Biệt Tự của bộ kinh này. Từ phẩm thứ
tư trở đi là phần Chánh Tông.
Trước
hết, chúng ta xem đoạn lớn thứ nhất giảng
về Thông Tự, “Pháp hội
thánh chúng đệ nhất”, trong đây bao hàm học vấn
to lớn, tuy kinh văn không dài, chỉ có bốn hàng kinh văn.
Chúng ta đọc kinh văn:
Như thị ngă
văn, nhất thời Phật tại Vương Xá thành,
Kỳ Xà Quật sơn trung. Dữ đại tỳ-kheo chúng
vạn nhị thiên nhân câu. Nhất thiết đại
thánh, thần thông dĩ đạt. Kỳ danh viết: Tôn
giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất,
tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp,
tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ. Hựu
hữu Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền Kiếp trung nhất
thiết Bồ Tát, giai lai tập hội.
如是我聞。一時佛在王舍城耆闍崛山中。與大比丘眾萬二千人俱。一切大聖。神通已達。其名曰。尊者憍陳如。尊者舍利弗。尊者大目犍連。尊者迦葉。尊者阿難等。而為上首。又有普賢菩薩。文殊師利菩薩。彌勒菩薩。及賢劫中一切菩薩。皆來集會。
(Tôi nghe như thế này: Một thời,
đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi
Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ-kheo chúng một
vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy các vị
đại thánh đă đạt thần thông, tên các Ngài là:
Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất,
tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp,
tôn giả A
Đoạn
Thông Tự được nói đến chỗ này. Đối
với đoạn kinh văn này, chúng ta xem trong năm bản
dịch gốc, trong mỗi bản liệt kê số người
rất nhiều, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư khi hội
tập đă chỉ chọn năm vị tôn giả làm đại
biểu, ba vị Bồ Tát, năm vị Thường Tùy
đệ tử, tỉnh lược rất nhiều. Năm
vị ấy có thể làm đại biểu cho toàn bộ
kinh hay không? Có thể chứ, từ năm vị ấy, có
thể thấy nghĩa thú của cả bộ kinh, [tức
là] nghĩa lư của cả bộ kinh hướng về đâu.
Nay chúng ta học tập kinh văn. Câu đầu tiên là “như thị ngă văn”. Trong
phần Thông Tự ở đầu mỗi bộ kinh đều
có bốn chữ này. “Chư
kinh giai trí thử tứ tự ư kinh thủ, cái tôn Thế
Tôn chi di giáo” (Các kinh đều
dùng bốn chữ này để đặt ở đầu
kinh là do tôn trọng di giáo của đức Thế Tôn). Kinh
văn được mở đầu bằng bốn chữ
ấy là do Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy.
Tiếp đó, sách viết: “Thế Tôn tương bát Niết
Bàn” (đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn), khi
Thích Ca Mâu Ni Phật sắp viên tịch, “A Nan bi bất năng thắng”, [nghĩa là] tôn giả
A Nan quá đỗi bi thương, tuy Ngài đă chứng Sơ
Quả, t́nh chấp vẫn c̣n rất sâu. Ngài A Nê Lâu Đà
(Anirudha) dạy A
Thứ
nhất là đức Phật tại thế, mọi người
chúng con nương theo đức Phật làm thầy, nương
theo Phật để trụ, Phật ở nơi đâu,
chúng con đều cùng ở đó. Nay Phật mất
đi, chúng con nương theo ai? Đây chính là như trong
nhà Phật nói “y chỉ một người nào đó”. Có ai thay
mặt đức Phật hay không? Đức Phật trả
lời, chẳng dặn ḍ nương theo bất cứ ai,
mà là “y Tứ Niệm Xứ trụ”
(nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ). Nương vào Tứ Niệm
Xứ để trụ, chẳng khác ǵ nương vào Phật
mà trụ. Phần thứ nhất của ba mươi bảy
đạo phẩm là Tứ Niệm Xứ.
Điều thứ
nhất trong Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy
chúng ta “quán Thân bất tịnh”.
Quư vị phải thường nghĩ thân thể này chẳng
phải là thứ sạch sẽ, chớ nên lưu luyến
thân thể này, đừng thường v́ thân thể này mà sanh
phiền năo, v́ thân thể này mà tạo nghiệp chướng.
Nếu vậy, quư vị đă sai mất rồi, thân là giả!
Trong Phật pháp thường nói “tá
giả tu chân” (nhờ vào cái giả để tu cái thật),
chúng ta dùng cái thân thể huyễn giả này để tu hành,
nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Điều này trọng yếu!
Thân là công cụ, quư vị hăy khéo lợi dụng nó, chớ
nên lợi dụng nó để tạo nghiệp, phải lợi
dụng nó để tu hành, đó là đúng. Không biết tu
hành, chắc chắn sẽ tạo nghiệp! Quả báo của
tạo nghiệp: Tạo thiện nghiệp sẽ vào tam thiện
đạo để tiêu nghiệp. Tam thiện đạo
hay tam ác đạo đều nhằm tiêu nghiệp chướng.
Nghiệp chướng có thiện và ác. Tạo nghiệp bất
thiện sẽ vào tam ác đạo để tiêu nghiệp,
quư vị thấy: Đều là tiêu nghiệp, b́nh đẳng!
V́ sao? Trong tự tánh thanh tịnh tâm không có nghiệp chướng,
thiện nghiệp lẫn ác nghiệp đều không có. Ác
nghiệp bất hảo, thiện nghiệp cũng bất
hảo! Phải giác ngộ điều này, chỉ cần tạo
nghiệp, quư vị sẽ không thoát khỏi lục đạo
luân hồi. Luân hồi trong lục đạo, chắc chắn
thời gian quư vị ở trong ác đạo dài lâu, thời
gian ở trong thiện đạo ngắn ngủi. Đó là
sự thật, chúng ta chớ nên không cảnh giác. V́ sao? Hễ
sanh ra đời là có phiền năo, phải biết rằng thiện
hay ác đều là phiền năo, phải biết điều
này, chúng đều là phiền năo. Trong ấy, thiện ít, ác
nhiều. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận, đă quy nạp những
nghiệp ấy (nghiệp chướng) thành hai mươi
sáu loại bất thiện, thiện cũng được
quy nạp thành mười một loại. Quư vị thấy:
So sánh giữa hai loại này, ác c̣n nhiều hơn hai lần
thiện, ác có hai mươi sáu thứ, thiện chỉ có mười
một! Chúng ta suy ra sẽ biết v́ sao con người học
điều tốt lành rất khó khăn, học theo chuyện
xấu rất dễ dàng! Tự tánh không có thiện hay ác, nó
có thể hiện, có thể sanh, có thể hiện vạn
pháp, có thể sanh vạn pháp. A Lại Da có thể biến,
trong A Lại Da có thiện và ác, có nhiễm và tịnh. V́ thế,
trong kinh, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”.
Lại nh́n vào hoàn cảnh bên ngoài, hoàn cảnh
có thánh nhân trụ thế th́ hoàn cảnh thiện nhiều,
ác ít; khi không có thánh nhân trụ thế, chắc chắn là
hoàn cảnh ấy ác nhiều, thiện ít. Đối với
xă hội hiện thời của chúng ta, chuyện này quả
thật là quá rơ rệt, nói rơ điều ǵ? Cho thấy trong
thời đại này không có thiện nhân! Không chỉ
nơi chúng ta đang sống không có thiện nhân, mà cả thế
giới đều không có. Thiện nhân xuất hiện trên
thế gian, đặc biệt là bậc đại thánh, đại hiền, chư Phật, Bồ
Tát, các Ngài thật sự từ bi. V́ sao các Ngài không đến?
Không có chúng sanh cảm, cảm ứng mà! Cho nên các Ngài chẳng
ứng. Hằng ngày, tâm chúng ta mong mỏi Phật, Bồ
Tát hiện đến, các Ngài có đến hay không? Chẳng
đến! Chúng ta cảm, v́ sao các Ngài chẳng ứng?
Chúng ta chẳng cảm bằng chân tâm, cho nên các Ngài không tới.
Do chân tâm, các Ngài sẽ đến. Chúng ta cầu Phật, Bồ
Tát, mục tiêu thứ nhất là ǵ? Làm sao để các Ngài phù
hộ tôi thăng quan, phát tài, cho nên các Ngài không tới. Nếu
khi quư vị dấy lên ư niệm, chẳng v́ phù hộ tôi, mà
do chúng sanh trong thế gian quá khổ, cầu Phật, Bồ
Tát đến giúp đỡ thế giới này, cứu khổ,
cứu nạn, các Ngài sẽ đến. Nay chúng ta thấy
các tai nạn, bao nhiêu người trên toàn thể thế giới
cầu đảo? Nhưng họ v́ ai mà cầu đảo?
Có ai chẳng v́ chính ḿnh? Cũng [có người cầu đảo]
v́ chúng sanh, nhưng v́ chính ḿnh là chủ yếu, chúng sanh chỉ
là kèm thêm! Tâm thái như vậy làm sao quư vị cảm động
Phật, Bồ Tát cho được? Đâu có đạo
lư ấy! Phải làm như thế nào? Hoàn toàn chẳng có
chính ḿnh! Hoàn toàn không có chính ḿnh sẽ chẳng phải là người
b́nh thường, trong quá khứ đă có cơ sở tu học
của thánh hiền, trong A Lại Da Thức có chủng tử
mạnh mẽ, đời này gặp thiện duyên, gặp được
thiện hữu giúp đỡ, nên người ấy giác ngộ,
hiểu rơ, người như vậy hễ cảm bèn có ứng.
V́ thế, quán thân bất tịnh rất trọng yếu. Tu
học Phật pháp, nếu muốn nhập môn, điều
thứ nhất là buông xuống Thân Kiến, đừng chấp
trước thân là ta. Thân chẳng phải là Ta th́ thân là ǵ?
Thân là cái ta có, giống như y phục. Y phục chẳng
phải là ta, mà là cái ta có. Thân thể cũng là cái ta có, chẳng
phải là ta. Đức Phật dạy chúng ta hăy nương
vào đó để trụ.
Thứ
hai, “quán Thọ là khổ”,
Thọ là ǵ? Thọ là hưởng thụ. Thích Ca Mâu Ni Phật
đă làm được! Thuở tại thế, Ngài giữa
trưa ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc
cây, toàn bộ tài sản là ba y một bát, đó là toàn bộ
tài sản của Ngài, thứ ǵ cũng chẳng có. Không giống
người thế gian chấp trước thân là ta, phải
cho cái thân này hưởng thụ, v́ mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, lại c̣n thêm ư, v́ lục căn mà hưởng thụ,
tạo đủ thứ tội nghiệp. Trong khi hưởng
thụ, dường như là sung sướng, nhưng đó
chẳng phải chân lạc, v́ sao? Sau khi sướng sẽ
khổ! Sướng biến thành khổ, chân thật ở
chỗ nào? Chúng ta lắng ḷng quan sát, không ǵ chẳng là tạo
ác nghiệp. Sát sanh ăn thịt, ngỡ đó là sướng!
Chẳng biết những thứ quư vị đă ăn đều
là hữu t́nh chúng sanh, đó là sanh mạng. Quư vị giết
chúng nó, chúng nó có cam tâm t́nh nguyện để cho quư vị giết
hại hay chăng? Trong kinh, đức Phật đă dạy:
“Nhân tử vi dương,
dương tử vi nhân” (người chết thành dê, dê
chết thành người). Nay con người ăn dê, đời
sau nó đầu thai làm người, những người ăn
dê hiện thời, về sau chết đi, đầu thai làm
dê, lại bị nó ăn, oan oan tương báo, chẳng hết,
chẳng xong! Nếu quư vị thấy nhân quả ba đời,
sẽ biết nhân quả thông ba đời. Chẳng phải
là thân người này chết đi là xong, đâu có dễ dàng
như vậy? Trong các buổi giảng, trong quá khứ, chúng
tôi thường nói, không thể chết được, chết
th́ c̣n làm ǵ được nữa! Nói thật đấy!
Không thể chết th́ làm như thế nào mới không thể
chết? Niệm Phật sẽ không chết! Quư vị phải
biết: Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
là ra đi trong khi sống, chẳng phải chết rồi
mới đi, quư vị phải hiểu rơ ràng! Khi quư vị
lâm chung, đầu óc sáng suốt, tai mắt thấy nghe rơ
ràng, thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quư
vị, theo Ngài ra đi, chẳng cần đến thân thể
này, vứt bỏ, ra đi trong khi c̣n sống, chẳng phải
là chết rồi mới ra đi. Do vậy, pháp môn này là “pháp môn bất tử”, ai có thể
hỏi cho được? V́ thế, kinh Di Đà là “vô vấn tự thuyết” (không
ai hỏi mà tự nói). Hơn nữa, bất luận người
nào, chỉ cần quư vị tin tưởng, đối với
ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, chỉ cần
trọn đủ ba điều kiện ấy, không một
ai chẳng văng sanh, pháp môn này đến nơi đâu để
t́m? Bất luận tạo bao nhiêu tội nghiệp vẫn
chẳng sợ, chỉ cần quư vị chuyển biến ư
niệm, thật sự cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thân cận A Di Đà Phật, nghiệp
chướng sẽ tiêu mất. Quá khứ, đời này
thiếu nợ mạng của chúng sanh, thiếu nợ t́nh,
thiếu nợ tiền bạc, sau khi quư vị thành Phật,
bất luận họ ở trong đường nào, quư vị
đều thấy rơ ràng, sẽ chẳng trái bổn nguyện,
nhất định giúp đỡ họ, giúp cho họ giác
ngộ, giúp họ niệm Phật văng sanh thành Phật. Ân lẫn
oán đều báo! Đối với các oan gia đối
đầu, dùng đức báo oán. Do vậy, phải hiểu:
Những ǵ chúng ta hứng chịu đúng là khổ! Trong
kinh, đức Phật thường nói tam khổ hoặc
bát khổ, trong những phần sau sẽ giảng giải.
“Quán Tâm vô thường”, “tâm” là vọng tâm. Chân tâm quư vị
sẽ chẳng quán được. Đây là chân tâm đă bị
mê mất rồi, nên thành vọng tâm, vọng tâm là vô thường.
Thật ra, Di Lặc Bồ Tát nói một cái khảy ngón tay
có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, nên gọi là “vô thường”. Nó chẳng
phải là như như bất động, vọng niệm
tơi bời, niệm trước diệt, niệm sau dấy
lên, tốc độ quá nhanh.
“Quán Pháp vô ngă”, Ngă là ǵ? Ngă có nghĩa là “chủ tể, tự tại”.
Quư vị hăy quán sát cẩn thận, trong hết thảy các
pháp đều không có chủ tể, đều là tùy duyên. Duyên
sanh, duyên diệt, trong ấy không có chủ tể, chẳng
tự tại. Chỉ có càng gần với Tánh Đức,
mới phát hiện có chủ tể, có tự tại. Do vậy,
trong Phật pháp, hễ minh tâm kiến tánh, Tứ Đức
“Thường, Lạc, Ngă,Tịnh” sẽ hiện tiền.
Ngă ấy là Chân Ngă, Chân Lạc. Thường là vĩnh hằng
bất diệt. Lạc là chẳng có nỗi khổ nào! Ĺa
Khổ là Lạc, chủ tể chân chánh, tự tại xuất
hiện. Sau đó là Tịnh, Tịnh là thanh tịnh. Khi kiến
tánh, câu đầu tiên Huệ Năng đại sư thốt
ra là “nào ngờ tự tánh, vốn
tự thanh tịnh”, tâm thanh tịnh hiện tiền, pháp
thanh tịnh hiện tiền, thấy hết thảy các pháp
đều thanh tịnh. Đó là câu hỏi thứ nhất
“chúng con nên nương vào ai để trụ?” Đức Phật
dạy “nương vào Tứ
Niệm Xứ mà trụ”.
Câu
hỏi thứ hai là khi đức Phật tại thế, chúng
con đều tôn Phật làm thầy. Phật khuất bóng,
chúng con nương cậy ai làm thầy? Phật pháp quả
thật có người truyền thừa. Truyền Tông Môn là
tôn giả Đại Ca Diếp, truyền Giáo Hạ là tôn
giả A
Lúc
tôi học Phật, muốn t́m một nơi, nhưng t́m không
ra. Đi khắp nơi trên cả thế giới, t́m
năm mươi chín năm vẫn chưa t́m ra. Kể ra vận
số cũng c̣n khá, được mấy vị cư
sĩ hộ tŕ, chẳng đến nỗi phải hoàn tục;
nếu không, chẳng có đường nào để đi.
Học hết sức nhọc nhằn! Điều khó có là
thuở đầu tôi thân cận ba vị thầy, theo thầy
mười ba năm, đặt vững căn bản. Chẳng
có mười ba năm vun bồi căn cội ấy, nếu
muốn tự học, sẽ chẳng thể nào, mà cũng
chẳng có cách nào! V́ thế, cổ nhân nói: “Thập tải hàn song, nhất cử thành danh” (mười
năm khổ nhọc, thi đậu, thành danh)[9] là có đạo lư. Không có mười
năm công phu, đă thế, mười năm c̣n phải
thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, quư vị mới có thể
thành tựu. Người hiện thời khác hẳn tiền
nhân, cũng chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh,
[ưa chuộng] học rộng nghe nhiều! Họ học
rất nhiều thứ, lăng phí rất nhiều thời gian,
rốt cuộc học được ǵ? Học rộng,
nhưng chẳng tinh tường. Cổ nhân dạy học
khác hẳn, tôi theo thầy Lư mười năm, mười
năm chỉ học năm bộ kinh. Tôi đă nói với
quư vị, tôi học hơn ba mươi bộ kinh, đều
là bàng thính (dự thính). Thầy dạy cho các bạn học
khác, tôi nghe ké, c̣n học chính thức chỉ có năm bộ.
Nói ra, quư vị nghe sẽ thấy rất đơn giản.
Bộ thứ nhất tôi học là A Nan Vấn Sự Phật
Cát Hung Kinh, bộ thứ hai là A Di Đà Kinh, bộ thứ
ba là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, một quyển,
tức quyển cuối cùng [của kinh Hoa Nghiêm] giảng về
mười đại nguyện vương, bộ thứ
tư là kinh Kim Cang, bộ thứ năm là kinh Lăng Nghiêm,
mười năm đấy nhé!
Khi
dạy, thầy quy định rất nghiêm ngặt, nhưng
Ngài không bó buộc học tṛ, v́ sao? Thời đại hiện
nay là dân chủ tự do rộng mở, nếu quư vị kiềm
chế quá ngặt nghèo sẽ vi phạm nhân quyền, không được
đâu, sẽ phải ngồi tù! V́ thế, khác hẳn trước
kia. Trước kia, cha mẹ có thể dạy con cái, thầy
có thể dạy tṛ, nay th́ không thể, chỉ có thể nói
là dùng thân phận đồng học, dâng kiến nghị
cho quư vị tham khảo, quư vị tiếp nhận hay không,
quư vị có chủ quyền, chủ quyền ấy rất
thiêng liêng, ai cũng không thể can thiệp! V́ thế, trong
thời đại này, có thể thành tựu hay không là do chính
ḿnh chịu trách nhiệm, thầy có muốn lănh trách nhiệm
cũng chẳng thể được, người ấy
đâu có chịu! Kể ra chúng tôi vẫn c̣n ngoan ngoăn một
chút, nghe lời, nên mới có một chút thành tựu. Nếu
chẳng nghe lời, tôi cũng học rộng nghe nhiều,
thế là xong luôn! Quả thật cổ nhân nói có lư, “một kinh thông, hết thảy
các kinh sẽ thông”. Tuy chúng ta chưa thông một kinh, nhưng
đă dốc sức rất nhiều nơi một bộ
kinh. Một bộ kinh phải học rất nhiều lượt,
chẳng phải một lần là xong! Mỗi lượt đều
khác nhau, dần dần sẽ nếm được pháp vị.
Đặt vững vàng cơ sở rồi, đối với
kinh chưa học, quư vị muốn học tập sẽ
chẳng khó. Chẳng hạn như tôi chưa từng học
kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa cũng chưa hề học, nhưng
tôi đều giảng được! Đổ công sức
nơi kinh Lăng Nghiêm, học Lăng Nghiêm với thầy
Lư, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm bảy lần. Đó là cơ
sở, đấy cũng là một bộ kinh lớn. Tôi nhớ
năm 1977, lần đầu tiên tôi sang Hương Cảng,
giảng kinh Lăng Nghiêm suốt bốn tháng, pháp duyên lần
ấy cũng thù thắng.
V́
thế, hiện thời đạo thầy tṛ rất khó thành
tựu là có nguyên nhân, v́ sao? Trong thời đại hiện
thời, không có đạo cha con, Phật pháp là sư đạo,
sư đạo kiến lập trên cơ sở hiếu đạo.
Xă hội này chẳng có hiếu đạo, đương
nhiên cũng chẳng có sư đạo. V́ thế, vấn
đề này nghiêm trọng, chẳng phải là vấn
đề nhỏ nhoi, có quan hệ đến sự tồn
vong của mạng mạch quốc gia, dân tộc và văn
hóa truyền thống. Thật sự phải là ǵ? Phải
là bậc Bồ Tát tái lai, thật sự phát đại tâm,
phải cảm nhận chính ḿnh có sứ mạng, hy sinh tánh
mạng cũng không bận ḷng ḥng học tập văn hóa
truyền thống. Sau khi học xong, sẽ dạy truyền
thống văn hóa, phát huy rực rỡ văn hóa truyền
thống. Đó là ǵ? Đó chính là Chúa Cứu Thế, Phật,
Bồ Tát tái lai, chẳng phải là người phàm! Người
phàm đến thế gian để cầu tiếng tăm,
lợi dưỡng, đến hưởng thụ sự
vui sướng do ngũ dục lục trần, đến
làm những chuyện ấy. V́ thế, đức Phật dạy
“lấy khổ làm thầy”
vô cùng hữu lư. Thật sự có thể chịu khổ, nhẫn
nhục, người ấy mới có thành tựu. Người
ấy nhất định thành tựu giới luật, giới
luật nhằm mục tiêu nào? Mục tiêu của giới
luật là tâm thanh tịnh. Chỉ có tŕ giới quư vị mới
có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là
Thiền Định. Có công phu định lực đạt
đến độ sâu nhất định, trí huệ sẽ
khai.
Đối
với Thiền Định, quư vị phải biết, hễ
chúng ta nói đến Thiền Định, trong đầu mọi
người đều nghĩ đến quan niệm: Ngồi
xếp bằng, nh́n vào vách th́ gọi là “tham Thiền”’; đó
là phương pháp sơ học trong Thiền Tông. Quư vị
phải hiểu Thiền Định theo nghĩa rộng, đừng
hiểu theo nghĩa hẹp. Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy
đều là Thiền Định, phương pháp tu học
Thiền Định khác nhau, đường lối khác
nhau, nên gọi là pháp môn! Nếu chẳng phải là tu Thiền
Định, sẽ chẳng phải là Phật pháp. Nếu
là tu Thiền Định th́ gọi là Phật pháp. Nay Tịnh
Độ Tông chúng ta dùng phương pháp ǵ để tu Thiền
Định? Nay chúng ta dùng một câu Phật hiệu A Di
Đà Phật, dùng phương pháp chấp tŕ danh hiệu để
tu Thiền Định. Cách tu ra sao? Trước hết, quư
vị phải hiểu Thiền Định nghĩa là ǵ? Giảng
hai chữ Thiền Định theo cách nào? Thiền là ǵ? Định
là ǵ? Ngoài chẳng chấp tướng là Thiền, trong chẳng
động tâm là Định, toàn bộ tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều là tu phương pháp này! Chúng ta mới
có một chút chấp trước, hoặc mới có một
tí phân biệt, liền A Di Đà Phật! Tổ sư Tông Môn
bảo: “Chẳng sợ niệm
khởi, chỉ sợ giác chậm!” Thiền Định
là giác, ư niệm mới dấy lên, bất luận thiện
niệm hay ác niệm, hễ niệm dấy lên là trật rồi!
V́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có ư niệm. Ư niệm dấy
lên th́ làm sao? Trở về A Di Đà Phật, thảy đều
quy vào A Di Đà Phật. Tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, A Di Đà Phật cũng không có, quư vị sẽ
minh tâm kiến tánh. Đây là dùng một niệm để xóa
trừ tất cả những niệm khác. Tịnh Tông dùng phương
pháp này, nên gọi là Niệm Phật. Dùng phương pháp Niệm
Phật để đạt đến minh tâm kiến tánh,
đạt tới đại triệt đại ngộ.
Bất
luận pháp môn nào, Tịnh Tông chẳng phải là ngoại
lệ, mục tiêu cuối cùng là minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật. V́ vậy, trong kinh Bát Nhă, đức Phật
đă dạy: “Pháp môn b́nh đẳng,
chẳng có cao thấp”, lời này là thật, chẳng giả.
Phương pháp khác nhau, nhưng phương hướng
như nhau, mục tiêu giống nhau. V́ thế, không có giới
th́ làm sao được? Quư vị chẳng thể chịu
khổ, sẽ chẳng thể tŕ giới. Quư vị chẳng
thể tŕ giới sẽ không thể đắc Định;
chẳng thể đắc Định, làm sao có thể khai
Huệ? Vậy th́ những điều quư vị mong cầu,
nghiên cứu sẽ là Phật học, là pháp thế gian, chúng
ta chớ nên không biết! Một bộ kinh A Di Đà có thể
giúp quư vị tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Trong thế gian này, quư vị thông minh, hiếu học,
nghiên cứu thấu suốt Tam Tạng mười hai bộ
kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, học thuộc nhuyễn
nhừ, nhưng không có giới! Không có giới, nói đến
chữ này, quư vị phải hiểu: Quư vị chẳng có Giới
- Định - Huệ. V́ lẽ đó, trước kia, thầy
Lư thường nói: Trong lục đạo luân hồi, quư vị
đáng sanh tử ra sao th́ vẫn sanh tử như thế ấy,
chẳng có một tí xíu biện pháp nào! Chớ nên xem thường
những ông già, bà cả, chẳng thể khi dễ họ!
Họ do một bộ kinh Di Đà, một câu A Di Đà Phật,
niệm vài chục năm, khi lâm chung, đứng văng sanh, ngồi
văng sanh, biết trước lúc mất. Đó là ǵ? Giới
- Định - Huệ thành tựu, họ dùng được!
Họ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới
làm Phật, c̣n quư vị vẫn luân hồi trong lục
đạo!
Câu
hỏi thứ ba, cũng là hỏi rất hay! Hiện thời,
hiện tượng này rất nhiều, trong đoàn thể,
kẻ chẳng tuân thủ quy củ của người xuất
gia th́ nên làm sao? Lúc đức Phật tại thế, đức
Phật có thể kiềm chế họ, đức Phật
có thể giáo huấn họ. Nay đức Phật đă
khuất, sau này, gặp những kẻ như vậy, ai sẽ
giáo huấn họ? Đức Phật dạy một
phương pháp rất hay, đừng quan tâm đến họ,
đó là Mặc Tẫn (Brahma-danda). Mặc Tẫn là không bận tâm đến kẻ
ấy, dùng phương pháp này. Khổng lăo phu tử của
Trung Quốc nói: “Kính nhi viễn
chi” (kính trọng nhưng giữ khoảng cách), chẳng
kết oán với người khác. Chúng tôi nghe thấy [điều
này trong] giáo huấn của thánh nhân, theo thầy Lư mười
năm, tôi thấy lăo nhân gia đă làm được. Trong đoàn
thể của cụ cũng có những học tṛ chẳng
nghe lời, bề ngoài tuân phục, bên trong chống đối,
cụ đối với kẻ ấy như thế nào? Chúng
tôi thấy thầy đúng là kính nhi viễn chi, thấy kẻ
ấy, thầy nhất định rất tôn kính, lễ độ,
luôn luôn rất hoan hỷ. “Viễn”
là ǵ? Viễn là quư vị tùy tiện làm ǵ, tôi trọn chẳng
can thiệp, chẳng nghe, chẳng hỏi đến! Quư vị
thích làm ǵ th́ làm. Đúng rồi, chính xác! Lăo nhân gia nêu gương
cho chúng ta thấy. Trong xă hội hiện tại, điều
này vô cùng trọng yếu, phải biết kính nhi viễn
chi đối với kẻ bất thiện! Viễn chẳng
phải là cố ư giữ khoảng cách. Chẳng phải! Gặp
mặt vẫn rất thân thiết, nhưng hết sức khách
sáo, lễ tiết ǵ cũng chu đáo; nhưng quư vị làm
ǵ, tôi không can thiệp, tôi làm ǵ, quư vị cũng chẳng
dính líu tới. Đấy chẳng phải là đối xử
tốt đẹp ư? Mọi người đều vui
vẻ ư? Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là có trí huệ, thật
sự có trí huệ. Nói đến ḥa hài th́ làm như vậy
mới thật sự đạt được ḥa hài. Phải
học chẳng phê b́nh kẻ khác, đừng nên can thiệp
vào chuyện của người khác, chính ḿnh nêu gương
tốt cho kẻ khác thấy, điều này rất trọng
yếu. Họ nh́n thấy, hiểu, có cảm nhận, tốt
lắm! Nh́n nhưng không hiểu, chẳng sao! Họ nh́n lâu
ngày sẽ hiểu. Một năm, hai năm mà nh́n không hiểu
th́ chắc họ nh́n thấy mười năm, hai
mươi năm sẽ hiểu, không nhất định!
V́ thế, thái độ nhu ḥa, chất trực quan trọng
lắm! “Oai nghi hữu tắc”
(oai nghi theo đúng khuôn khổ) là chính ḿnh phải thực
hiện Giới - Định - Huệ.
Câu hỏi thứ
tư là mọi người đều biết, trong tương
lai nhất định sẽ dùng văn tự ghi chép những
điều Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, đă dạy trong
một đời để truyền cho hậu thế. Vậy
th́ đầu kinh văn, câu đầu tiên phải viết
như thế nào? Đức Thế Tôn chỉ dạy, dùng “như thị ngă văn”. Đấy
là khi đức Phật diệt độ, A Nan hướng
về Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi bốn vấn đề.
Đây là vấn đề thứ tư trong bốn vấn
đề. “Nhất thiết kinh
thủ, đương trí như thị ngă văn, Phật tại
mỗ phương đẳng lục sự” (Đầu hết thảy các kinh, nên
để “như thị ngă văn”, Phật tại chốn
mỗ, thời mỗ...”, [tức là] sáu thứ thành tựu
[vừa nói trên đây]). Tôi nghe như thế này, đức
Phật vào lúc nào, ở địa điểm nào, cùng với
người nào, tức là sáu sự đă nói trong phần trước,
tức sáu món thành tựu.
“Như thị ngă văn”, chữ Ngă này chỉ A Nan. A
Tiếp đó,
c̣n có vấn đề: “Hoặc
nghi viết: Phật thành đạo nhập niên, A
- “Triển chuyển văn: Báo Ân
kinh ngôn, A Nan sở bất văn kinh, tùng chư tỳ-kheo văn,
hoặc chư thiên tử thuyết” (Triển chuyển văn: Kinh Báo Ân
nói những kinh nào A Nan không được nghe trước
đó th́ nghe từ các tỳ-kheo khác, hoặc nghe chư
thiên nói). Nghe từ đồng học, từ
những vị đồng học đă thân cận [đức
Thế Tôn] từ thuở đầu, những vị đồng
học ấy như ngài Kiều Trần Như đă nói
trong phần trước là vị chứng A La Hán đầu
tiên ở Lộc Dă Uyển, có thể nói là hết thảy các
kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi
chín năm, Ngài nghe toàn bộ, chẳng sót buổi nào. Các Ngài
có quan hệ thân thích với Thích Ca Mâu Ni Phật và A
- Thứ hai là
“Phật trùng thuyết”, trong
kinh Báo Ân có chép: “A
- Thứ ba là “A Nan tự thông: Kim Cang Hoa Kinh
ngôn, A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, sở
vị văn kinh, tự năng ức tŕ” (A Nan tự thông
hiểu: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự
Tại tam-muội, những kinh chưa được nghe,
có thể tự ghi nhớ). Quư vị thấy: Khai ngộ đấy!
Quư vị thấy ở Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ
Huệ Năng đại sư khai ngộ, chẳng nghe
người khác giảng kinh, chỉ có lúc tiếp nhận
y bát ở Hoàng Mai, ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn đêm
khuya giảng đại ư kinh Kim Cang cho Ngài, chắc chắn
là không có kinh sách, chúng tôi dự đoán thời gian tối đa
là hai tiếng đồng hồ, giảng tới câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ
tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu để sanh tâm),
Ngài hoát nhiên đại ngộ, bèn thông suốt. Hết thảy
các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, quư vị đọc
cho Ngài nghe, Ngài bèn có thể giảng cho quư vị nghe. Quư vị
là người đọc chẳng giác ngộ, Ngài giảng
cho quư vị nghe, rất có thể là quư vị sẽ đại
triệt đại ngộ. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng chẳng
phải là một thí dụ rất rơ rệt đó ư? Vị
này là người được Huệ Năng đại
sư độ đầu tiên, đắc độ đầu
tiên, Ngài gặp trên đường lánh nạn. Tại thôn
Tào Hầu gặp gỡ, vị tỳ-kheo-ni này cả đời
thọ tŕ kinh Đại Niết Bàn. Kinh Đại Niết
Bàn kích thước cũng rất lớn, có hai bản dịch,
một bản bốn mươi quyển, bản dịch
kia gồm ba mươi sáu quyển, đều là phân lượng
khá lớn. Con người xưa kia tốt đẹp, thâm
nhập một môn! Như thiền sư Pháp Đạt học
kinh Pháp Hoa mười năm, thâm nhập một môn. Thâm nhập
một môn, Sư đắc tam-muội, tâm thanh tịnh, trong
tâm chẳng có ǵ khác, chỉ có một thứ này. V́ thế,
Lục Tổ bảo ni sư hăy niệm kinh. Sau khi niệm
xong, Lục Tổ vừa nghe một đoạn đă giảng
ư nghĩa của đoạn ấy cho ni sư nghe. Ni sư
nghe xong: “Hay quá!”, hết sức hoan hỷ, cầm quyển
kinh hướng về Huệ Năng đại sư thỉnh
giáo. Huệ Năng đại sư bảo: “Ta không biết
chữ, ngươi đừng đưa kinh cho ta”. Ni sư
hỏi: “Chẳng biết chữ th́ làm sao Ngài giảng hay
như thế?” Tổ dạy: “Chuyện ấy chẳng dính
dáng ǵ đến biết chữ hay không biết chữ”. Chúng
ta có thể suy ra: Huệ Năng đại sư có năng
lực ấy th́ A Nan cũng có năng lực ấy. Chỉ
cần chuyên, nay chúng ta nói là “chuyên chú”, c̣n Phật pháp gọi
là “chuyên nhất”. Khi đạt đến nhất tâm bất
loạn sẽ khai, tự được tâm khai, tự
nhiên thông suốt. Khi con người đă kiến tánh, thứ
ǵ cũng đều thông. A
Do A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài là
người lưu truyền Giáo Hạ của Phật, Ca
Diếp là người lưu truyền Tông Môn, truyền Thiền
Tông. V́ thế, [Phật giáo] được gọi là “Tông Môn Giáo Hạ”. Bản thân
Phật giáo xưng là Tông Giáo, khác với chữ “tôn giáo” hiện
thời, Tông là Tông Môn, Giáo là Giáo Hạ. Tại Trung Quốc
có mười tông, Thiền Tông xưng là Tông Môn, chín tôn phái
kia đều gọi là Giáo Hạ. Đây là phương thức
giáo học khác nhau. Tông Môn trước tiên bảo quư vị
tham cứu, không có sách giáo khoa. Ngộ rồi sẽ bắt
đầu tu, [tức là] sau khi đại triệt đại
ngộ, mới cho phép quư vị xem kinh. Trước khi khai
ngộ, chẳng được phép xem kinh. Đây là [pháp
môn dành cho] nhân vật thiên tài đặc biệt, chẳng dành
cho người tầm thường. V́ thế, lúc tôi vừa
tiếp xúc Phật pháp, ba vị thầy đều cảnh
cáo tôi. Ba vị thầy đều chưa gặp mặt
tôi, nhưng đă cảnh cáo tôi một chuyện, bảo
tôi ngàn vạn phần đừng mon men Thiền Tông. Đó
là [pháp môn dành cho] kẻ thượng thượng căn,
là nhân vật thiên tài trong Phật môn. Nếu anh muốn học
pháp môn ấy, đó là “một bước lên trời”. Nếu
một bước không lên trời được, rớt
xuống sẽ tan thân nát xương, xong luôn! V́ thế,
tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy
tôi Pháp Tướng Duy Thức, Ngài chỉ điểm cho tôi
con đường ấy. Sau khi học Phật, tôi thân cận
Chương Gia đại sư, tôi theo Phương tiên sinh
đại khái nửa năm, theo Chương Gia đại
sư ba năm, Chương Gia đại sư đặt
vững cơ sở cho tôi. Chương gia đại
sư dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”, đây
là pháp môn tổng quát, tổng nguyên tắc, tổng
cương lănh, bất luận tu pháp môn nào cũng đều
phải thực hiện từ nơi đây! Ngài dạy tôi
học Thích Ca Mâu Ni Phật, tác phẩm Ngài dạy tôi đọc
đầu tiên là Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí:
“Anh nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật, khéo học tập
theo Ngài, sẽ chẳng đến nỗi đi sai đường”.
Chúng tôi mới liễu giải sau khi khai ngộ vào năm
ba mươi tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật liền tiến
hành dạy học, dạy suốt bốn mươi chín năm.
V́ thế, Phật pháp chẳng phải là tôn giáo.
Hiện
thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, đệ tử Phật
môn chúng ta có tội lỗi. Thầy chúng ta là một đại
giáo dục gia, là đại thánh đại hiền, cớ
sao lại khiến cho Ngài dính mắc vào tôn giáo, tôn giáo là mê
tín? Chúng ta hiểu rơ ràng, bất luận nơi nào, chúng ta đều
phải bảo cho mọi người biết: “Phật
pháp chẳng phải là tôn giáo”. Lời này chẳng phải
do tôi nói đầu tiên, mà do Âu Dương đại sư
(Âu Dương Cánh Vô) nói trước tiên. H́nh như vào năm
Dân Quốc 12 (1933), tôi c̣n chưa sanh ra. Ông ta ở đại
học Đệ Tứ Trung Sơn, nay là đại học
Sư Phạm Nam Kinh, đă có lần giảng diễn rất
nổi tiếng với đề mục “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải
là triết học, mà là nhu cầu thiết yếu trong hiện
thời”, giảng về đề tài như thế. Phật
giáo là ǵ? Phật giáo là giáo dục của đức Phật,
là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, rất rơ ràng.
Chúng ta học Phật là tiếp nhận sự giáo dục
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài giáo dục là dạy ǵ? Dùng
một câu nói trong kinh điển để nói th́ sẽ là “chư pháp Thật Tướng”.
Câu này giải thích ra sẽ là: Thật Tướng của
nhân sinh và vũ trụ, Ngài dạy chúng ta điều này. Nói
cụ thể cùng quư vị, nói theo cách người hiện
thời, nội dung lời Ngài nói là ǵ? Nói cụ thể sẽ
không ngoài năm hạng mục lớn. Năm hạng mục
ấy là luân lư, đạo đức, nhân quả, triết
học, và khoa học. Năm hạng mục đều giảng
đến mức viên măn rốt ráo, quá sức quư báu! Người
đời sau gọi giáo học của lăo nhân gia và các sách
vở, tức là những tài liệu dạy học thuở
ấy là Pháp Bảo, có lư lắm! V́ thế, bản thân chúng
ta phải khéo học, phải nghiêm túc học, phải uốn
nắn những ngộ nhận của xă hội, đó là trách
nhiệm và sứ mạng của chúng ta. Thầy Phương
cả đời nỗ lực làm chuyện này, rất đáng
tiếc là cụ mất quá sớm, bảy mươi chín
tuổi đă ra đi. Khi ấy tôi nghĩ, nếu thầy
sống thêm năm năm nữa, hiệu quả sẽ vô cùng
rơ rệt, có thể khiến cho đại chúng trong xă hội
suy nghĩ lại, xác định đúng vị trí của Phật
pháp. Phật pháp thật sự chẳng phải là tôn giáo.
Tiếp
đó, cụ Hoàng lại giải thích cặn kẽ chữ
“như thị”, “như thị” là
Tín Thành Tựu. “Cư lục
chủng thành tựu trung chi thủ vị” (đứng đầu
trong sáu món thành tựu), [đây là] điều đầu tiên
phải tin tưởng. Quư vị tiếp nhận giáo dục,
chẳng có ḷng tin đối với thầy, chẳng có ḷng
tin đối với môn quư vị đang học, sẽ chẳng
thể nào học thành công được! V́ thế, đầu
tiên, phải tin tưởng thầy, thứ hai là tin tưởng
vào môn học th́ quư vị mới thật sự học được
điều ǵ đó. Nếu tâm quư vị chẳng mười
phần cung kính thầy, sẽ chẳng đạt được
mười phần lợi ích. Trong Văn Sao, Ấn Quang
đại sư đă giảng rất nhiều lần: “Một phần thành kính được
một phần lợi ích, hai phần thành kính được
hai phần lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Thành kính đối với
ai? Thành kính đối với thầy, tin tưởng môn học,
có ḷng thành tín, quư vị mới thật sự học được.
Cùng một môn học, cùng một vị thầy, v́ sao hiệu
quả học tập của mỗi tṛ khác nhau? Chẳng có
chi khác, do ḷng tin khác nhau! Đạo lư ở chỗ ấy!
Thầy xét coi học tṛ nào có thể dạy được,
học tṛ nào chẳng có cách dạy! V́ sao thầy biết?
Thầy chẳng có thần thông, thầy chỉ coi tṛ có tâm
tôn kính hay không? Thầy cũng trọn chẳng đ̣i hỏi
quư vị tôn kính thầy như thế nào, chẳng phải
vậy, mà là thầy xem quư vị có thể tiếp nhận
được bao nhiêu?
Do
tôi được cha dạy tôn sư trọng đạo từ
nhỏ; thuở ấy, khoảng chừng năm Dân Quốc
hai mươi mấy, tôi nhớ h́nh như tôi năm, sáu tuổi,
hoặc sáu bảy tuổi, vào trường tư thục,
nay gọi là trường học dành cho con em trong gia đ́nh,
[thầy dạy] là họ hàng, ở trong nhà cô tôi, thuở ấy
là đại gia tộc. Do tôi vẫn c̣n tiếp xúc với đại
gia đ́nh, nên có ấn tượng. Thôn trang ấy có phạm
vi rất lớn. Ước chừng tới hai trăm người,
là một gia tộc, chẳng tách ra thành từng nhà riêng biệt,
mười người anh em [của cha tôi] chẳng tách riêng.
V́ vậy, cả nhà từ trên xuống dưới có khoảng
chừng hai trăm người, là gia tộc rất lớn.
Họ có một từ đường. Từ đường
trừ Xuân Thu tế lễ ra, chẳng dùng để làm ǵ.
V́ thế, trường tư thục mở ngay trong từ
đường. Tư thục là trường học cho
con em trong gia tộc, trẻ nhỏ trong gia tộc đều
đến học tại đó. Tôi nhớ các bạn học
dường như không nhiều lắm, phải là từ
ba mươi đến năm mươi người, không
nhiều lắm! Lớn tuổi th́ đại khái có mười
bảy, mười tám, nhỏ tuổi th́ giống như
chúng tôi, rất bé, sáu, bảy tuổi. Cùng dạy trong một
pḥng học, một vị thầy. Ngày nhập học, cha
dẫn tôi đi, mang theo lễ vật, biếu “thúc tu”[10] cho thầy, cho nên mang theo lễ
vật dâng lên thầy. Vào trường học, tức là đại
điện (gian chính của từ đường), đại
điện là nơi tế tổ được đổi
thành lễ đường. Chính giữa điện, đặt
một bài vị, chữ trên bài vị tôi đều đọc
được, v́ khi đó, cha đă dạy cho tôi biết
mặt chữ tại nhà, đại khái có thể nhận
biết tới năm trăm chữ. V́ thế, mấy chữ
trên bài vị tôi đều đọc được: “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư
Khổng Phu Tử Thần Vị”, tôi nhận biết bài
vị ấy, bài vị rất lớn. Thầy ngồi bên
cạnh, hai bên là học tṛ, bạn học đứng hai bên.
Cha tôi dẫn tôi, cha ở trước, tôi ở đằng
sau, hướng về Khổng lăo phu tử hành lễ tối
kính, tức là ba lần lạy, chín lần dập đầu.
Sau khi lạy xong, cha tôi mời thầy ngồi trên ghế,
thầy ngồi phía dưới bài vị Khổng Tử, [cha
con cùng] hướng về thầy ba lần quỳ, chín lần
dập đầu, chúng tôi biết tôn sư trọng đạo
từ chỗ này. Quư vị thấy cha tôi đối đăi
thầy, ba lần quỳ, chín lần dập đầu [trịnh
trọng như thế], chúng tôi c̣n dám nói ǵ nữa hay không?
Thầy và bậc trưởng thượng trong nhà biểu
diễn cho quư vị xem, dạy quư vị biết tôn sư
trọng đạo như thế nào. Tôi học từ chỗ
ấy, nên cả đời luôn rất tôn kính thầy.
Sau
này, quư vị thấy tôi học Phật tại Đài Loan, tôi
chiếm được một chút tiện nghi đối
với ba vị thầy. Tôi chẳng có mảy may quan hệ
ǵ với thầy, nhưng sau khi thân cận thầy, thầy
đặc biệt quan tâm, đặc biệt chăm chút tôi.
Tôi thân cận thầy Phương, chỉ cầu thầy đồng
ư cho tôi đến dự thính tại trường th́ duyên ấy
đă vô cùng hy hữu. Nào ngờ thầy cho phép tôi mỗi
tuần đến nhà thầy, dạy tôi hai tiếng, chỉ
có ḿnh tôi là học tṛ. Thuở ấy, tôi được sủng
ái mà đâm ra sợ, cảm kích năm vóc sát đất. Lúc
đó, đời sống tôi rất nghèo khó, một đồng
biếu thầy cũng không có, thầy t́nh nguyện dạy
miễn phí cho tôi. Do nguyên nhân nào? Mười mấy năm
sau, chúng tôi mới nghĩ ra, đối với thầy, tâm
tôi có một phần cung kính. Tôi và thầy chẳng quen biết,
tôi viết một lá thư gởi đến Ngài, thư viết
bằng bút lông, dùng lối chữ Công Khải[11], đúng quy củ viết một
bức thư, gởi một bài văn cho thầy xem, bài văn
ấy viết bằng lối chữ Tiểu Khải[12], hết sức cung kính. Đại
khái là trong trường học, người có tâm cung kính
đối với thầy như thế rất ít. V́ thế,
lần đầu tiên gặp mặt, thầy gọi tôi đến
nói chuyện, hiểu rơ t́nh h́nh cuộc sống của tôi,
hiểu rơ chí thú của tôi: Tôi ưa thích triết học,
nhưng chưa hề học qua, chưa hề thân cận
một vị thầy triết học nào, cũng chưa từng
đọc những sách triết học nào, là một tờ
giấy trắng. Đó là ǵ? Thầy thích nhất, chưa từng
bị ô nhiễm. V́ thế, thầy chẳng cho tôi đến
trường nghe kinh, sợ bị ô nhiễm. Đến trường
nghe kinh, nhất định quen biết rất nhiều thầy
và bạn học, sẽ bị ô nhiễm, thầy ngăn
ngừa ô nhiễm! Đấy là sư thừa Trung Quốc
thời cổ, nghe lời dạy của một vị thầy
mà thôi! Một vị thầy chỉ dạy quư vị, quư vị
sẽ đi theo một con đường, có thể đạt
thành tựu. Hai vị thầy là hai loại tư tưởng,
hai phương hướng, có hai con đường! Ba vị
thầy là ngă ba đường, bốn vị thầy là ngă
tư, xong luôn! V́ thế, trường học hiện thời
phiền phức lắm. Quư vị thấy mỗi ngày có bao
nhiêu lớp, mấy vị thầy dạy quư vị, dạy
đến nỗi quư vị hồ đồ! Nguyên nhân v́
sao giáo sư David McMullen từ
Tiếp
đó, sách viết: “Trí Độ
Luận viết: Phật pháp đại hải, tín vi năng
nhập” (Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật
pháp, do ḷng tin có thể vào”). Phật pháp quả thật là đại
hải, “hải” là Tánh hải.
Giáo học Phật pháp nhằm trở về tự tánh, trở
về tự tánh, quư vị sẽ đắc đại
viên măn. Không có cách nào h́nh dung sự đại viên măn này. Nói
đơn giản là như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
đă nói trí huệ viên măn, đức năng viên măn, tướng
hảo viên măn, không có ǵ chẳng viên măn. Sự viên măn ấy
chẳng do quư vị học được, mà vốn sẵn
có trong tự tánh, chỉ cần kiến tánh sẽ thảy
đều chứng đắc. Do vậy, người kiến
tánh được gọi là Phật. Phật Phật đạo
đồng, Phật Phật trí huệ giống nhau, đức
năng giống nhau, tướng hảo giống nhau, không
có ǵ khác nhau. Tuyệt đối chẳng thể nói vị Phật
này biết nhiều hơn vị Phật kia một chút, không
hề có, [các vị Phật đều] viên măn. Chứng đắc
của hết thảy chư Phật chẳng tăng, chẳng
giảm. Thật ra, hết thảy chúng sanh chúng ta và Phật
chẳng khác ǵ nhau, chỉ là mê mất tự tánh mà thôi. Ngày
nào chúng ta buông mê hoặc, điên đảo xuống, quư vị
sẽ thành Phật. Quư vị và chư Phật Như Lai chẳng
sai biệt, pháp thế gian thông suốt toàn bộ, pháp xuất
thế gian cũng thông suốt. V́ sao? Hết thảy các
pháp chẳng ĺa tự tánh, hết thảy các pháp đều
là do tự tánh sanh và hiện, ngay cả những ǵ do A Lại
Da biến ra, hết thảy đều hiểu rơ. Làm thế
nào để có thể cầu được? “Quư dĩ chuyên”, hễ chuyên bèn
có thể cầu được, c̣n tạp sẽ chẳng
có cách nào! Phải buông khởi tâm động niệm, phân
biệt, chấp trước xuống. Trong kinh Đại
Thừa thường nói điều này, quư vị thấy:
Buông chấp trước xuống, quư vị sẽ chứng
quả A La Hán, thành Chánh Giác. Nếu buông phân biệt xuống,
quư vị sẽ là Bồ Tát, thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu chẳng khởi tâm bất động niệm, quư
vị sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, là Phật. Minh tâm kiến tánh, đúng như Huệ
Năng đại sư đă nói, chẳng dính dáng ǵ đến
biết chữ hay không biết chữ, học hay chẳng
học, mà liên quan đến buông xuống hay không! Dẫu quư
vị học cho nhiều, nhưng không buông xuống
được, quư vị sẽ là học giả trong thế
gian, chẳng thể nào sánh bằng bậc Tu Đà Hoàn trong
Phật giáo, mà cũng chẳng được thụ dụng
như bậc Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn có trí huệ, quư vị
có tri thức, nhưng không có trí huệ. Nhất định
phải hiểu rơ ràng điều này.
“Hựu Hoa Nghiêm Kinh thuyết, tín
vi thủ. Như nhân hữu thủ, chí trân bảo xứ,
tùy ư thái thủ. Nhược nhân vô thủ, không vô sở hoạch.
Khả kiến, tín giả năi nhập pháp chi sơ môn, xả
thử mạc do” (Kinh Hoa
Nghiêm lại dạy: “Tín làm tay, như người có tay
đến chốn trân bảo, tùy ư nhặt lấy. Người
nếu không tay, không
được thứ ǵ”. Rơ ràng, Tín là cửa đầu
tiên để nhập pháp, bỏ Tín th́ không cách nào nhập
được). Tín rất trọng yếu!
V́ thế, đại kinh, đại luận, đại
kinh là Hoa Nghiêm, đại luận là Đại Trí Độ
Luận, đều nói: “Tín vi đạo
nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo,
mẹ công đức), ư nói: Cội nguồn của đạo
là Tín, hết thảy các công đức đều là sanh từ
tín tâm. Không tin, quư vị chẳng có công đức, có thể
tu phước đức, nhưng chẳng có cách nào tu công
đức. Công đức nhất định phải phát
xuất từ tín tâm, chúng ta chớ nên không biết điều
này. Chúng ta học Phật, có đạt thành tựu trong Phật
pháp hay không? Nói thật ra, quư vị hăy chú tâm quan sát, quư vị
có tin Phật hay không? Có tin pháp hay không? Có tin thiện tri thức
hay không? Nếu đối với ba điều ấy mà
ḷng tin chẳng đủ, trong Phật môn, quư vị chỉ
có thể tu được phước báo, phước
đức, chẳng có công đức; nhưng phước
đức chẳng thể giải quyết vấn đề!
Phước đức có thể giải quyết cuộc
sống trước mắt: Có phước báo, có thể đạt
được tiếng tăm, lợi dưỡng, nhưng
chẳng có mảy may dính dáng đến liễu sanh tử,
thoát luân hồi, văng sanh thành Phật. Phải biết điều
này! Nhưng chuyện này đối với những người
truy cầu tri thức mà nói th́ cũng là chuyện rất b́nh
thường, họ nói sao? Đó là mê tín, chẳng hợp
khoa học, họ chịu thua thiệt rất lớn. May
sao, trong hiện tại, Lượng Tử Lực Học
xuất hiện, đây là ngành khoa học mới xuất hiện,
tôi tin trong năm năm nữa, nó sẽ phổ biến. Từ
những phát hiện của Lượng Tử Lực Học,
những nguyên lư và nguyên tắc do đức Phật đă
giảng đều được chứng thực. Trước
hết, họ chứng minh một chuyện: Vũ trụ xuất
hiện trong sát-na, từ Không mà sanh Có. Cách nói này hết sức
gần với Phật pháp. Trên thực tế, chẳng phải
là từ Không sanh ra Có, mà là một niệm bất giác, tự
tánh biến hiện một A Lại Da. A Lại Da là Tạo
Vật Chủ (Tạo Hóa), từ A Lại Da xuất hiện
vũ trụ vạn vật, sanh mạng, kể cả bản
thân chúng ta. Điều này rất gần gũi. V́ thế,
những điều này có lợi. Có thể thấy: Tín là sơ
môn để nhập pháp, bỏ ĺa ḷng tin sẽ không có cách
nào [nhập đạo].
“Hựu vi nhiếp pháp chi thượng
thủ, cố vân: Tài nhập tín môn, tiện đăng tổ
vị” (Tín lại là điều
quan trọng nhất để gồm thâu các pháp (lănh hội
các pháp), nên có câu: “Vừa vào cửa Tín, liền lên địa
vị Tổ”). Đây là nói đến Chân Tín. V́ sao Huệ Năng đại sư nghe Ngũ
Tổ nói mấy câu bèn khai ngộ? Chẳng có ǵ khác, ḷng thành
tín đă đạt tới viên măn, cho nên vừa được
chỉ điểm bèn thông suốt. V́ sao nay chúng ta chẳng
thể? Trong tín tâm của chúng ta xen tạp hoài nghi, chẳng
phải hoàn toàn là thành tín, mức độ tin tưởng
chẳng đủ! Trong đây có đại học vấn!
Tín tâm viên măn dẫn đến thành tựu viên măn. Tín tâm cũng
chẳng dễ dàng sanh khởi! Đặc biệt là đối
với khoa học hiện thời. Các nhà khoa học theo đuổi
hoài nghi, hoàn toàn trái nghịch với đường lối
nhập đạo của nhà Phật. Trong Phật pháp, mảy
may hoài nghi cũng chẳng thể có. Quư vị có một phần
hoài nghi, sẽ có một phần chướng ngại. Có mười
phần hoài nghi, sẽ có mười phần chướng
ngại. Chúng ta chia tín tâm thành một trăm phần, tín tâm
viên măn một trăm phần, sẽ lập tức có thể
thành Phật, ở đây nói là: “Tài
nhập Tín môn, tiện đăng tổ vị”, Huệ
Năng đại sư là một ví dụ! Tín tâm một trăm
phần, có mười phần tin tưởng là đă khá lắm,
cũng rất khó có! Tôi theo mấy vị thầy, tôi nghĩ
khi ấy thầy thấy tôi tín tâm bất quá được
mười phần mà thôi, một trăm phần chỉ được
mười phần. Nếu tôi là một trăm phần trăm,
tôi sẽ giống như Huệ Năng đại sư,
thành Phật, thật sự chẳng sai tí nào! Chúng ta phải
nâng cao bản thân như thế nào, phải làm cho ḷng tin sâu
đậm hơn như thế nào? Tín tâm liên quan đến
đọc tụng Đại Thừa. Nay quư vị nghe một
bộ kinh này, có thể thật sự nghe bộ kinh này đến
ba ngàn lượt, tín tâm của quư vị tối thiểu có
thể đạt tới hai ba chục phần trăm, sẽ
có năng lực lănh ngộ kha khá, Giới - Định -
Huệ sẽ dần dần h́nh thành. Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học tới đây.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 41 hết
[1] Biện Chứng Pháp: Cách lư luận nhằm
giải quyết những quan điểm khác nhau về cùng
một vấn đề, áp dụng những lư luận, giải
thích hợp lư.
[2] Đường Quân Nghị (1909-1978),
người huyện Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên, là một
nhà tư tưởng, triết học kiêm giáo dục nổi
tiếng của Trung Hoa hiện đại, cụ
được coi là truyền nhân của tiên sinh
Phương Đông Mỹ. Năm 1949, cụ cùng Tiền Mục,
Trương Phi Giới v.v... sáng lập Á Châu Văn
Thương Học Viện (nay là Hương Cảng Trung
Văn Đại Học Viện), từng sang Mỹ dạy
học theo lời mời của Quốc Hội Mỹ, dạy
học tại nhiều đại học ở Đài Loan,
Hương Cảng. Trước tác rất phong phú về
nhiều đề tài, nổi tiếng nhất là các tác phẩm
Trung Tây Triết Học Tư Tưởng Chi Tỷ Giảo
Nghiên Cứu Tập, Trung Quốc Triết Học Nguyên Luận,
Triết Học Khái Luận, Nguyên Giáo Thiên v.v...
[3] Lănh
[4] Đăng Địa Bồ Tát: Bồ
Tát chứng đắc từ Sơ Địa trở lên.
[5] Năm thế hệ cùng sống chung một
nhà.
[6] Gia Tường Cát Tạng (549-623) là cao
tăng đời Tùy. Ngài quê ở Kim Lăng, họ An, tên
Thế, tổ tiên vốn là người An Tức, về
sau di cư đến Kim Lăng, nên đôi khi người
ta c̣n gọi Ngài là Hồ Cát Tạng. Năm lên bốn tuổi,
Sư theo cha yết kiến ngài Chân Đế, được
ban pháp danh là Cát Tạng. Sau đấy, cha Ngài xuất gia hiệu
là Đạo Lượng. Sư thường theo cha đến
chùa Hưng Hoàng nghe ngài Pháp Tuyên giảng Tam Luận, năm
lên bảy tuổi bèn xin xuống tóc với ngài Pháp Lăng. Do
ngài Pháp Lăng chuyên nghiên cứu Tam Luận giáo học, nên
Sư chuyên học Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị
Môn Luận. Năm mười chín tuổi, Sư lên giảng
kinh khiến cho thính chúng kinh ngạc trước biện
tài. Năm Sư ba mươi hai tuổi, ngài Pháp Lăng thị
tịch, nên Sư lui về chùa Gia Tường ở Cối
Kê, chuyên tâm giảng thuyết, viết sách, người hỏi
đạo cả ngàn người, pháp duyên rất thịnh.
Do cách sách chú giải về Tam Luận của Sư
được các tăng chúng hân thưởng, nên mọi
người chỉ gọi Sư bằng
danh hiệu Gia Tường đại sư, chứ không gọi
tên húy. Sư cũng từng viết thư thỉnh ngài Trí
Khải (Trí Giả đại sư) giảng Pháp Hoa. Sư
từng tự chép hai ngàn bộ kinh Pháp Hoa, tạo hai
mươi lăm pho tượng Phật, cạn hết
ḷng thành lễ sám. Năm Vũ Đức nguyên niên (618)
đời Đường Cao Tổ, triều đ́nh tuyển
chọn mười vị cao tăng để thống
lănh tăng chúng, Ngài cũng được cung thỉnh vào
đó. Tháng Năm năm Vũ Đức thứ sáu
(623), Sư tắm gội, thay áo mới, thắp
hương, niệm Phật, viết xong tác phẩm Tử
Bất Bộ Luận, rồi an tường viên tịch.
B́nh sinh, Sư giảng Tam Luận hơn một trăm lần,
kinh Pháp Hoa ba trăm lần, giảng các kinh Đại Phẩm,
Hoa Nghiêm, Duy Ma, và Đại Trí Độ Luận hơn
mười lần. Trước tác phong phú, nổi tiếng
nhất là các bộ Trung Quán Luận Sớ, Thập Nhị
Môn Luận Sớ, Bách Luận Sớ, Tam Luận Huyền
Nghĩa, Đại Thừa Huyền Luận, Pháp Hoa Huyền
Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ v.v.. Hầu như các kinh
Đại Thừa quan trọng như Pháp Hoa, Niết Bàn,
Thắng Man, Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Duy Ma, Nhân
Vương, Vô Lượng Thọ v.v... Ngài đều viết
chú sớ.
[7] Pháp Hoa Luận chính là bộ Pháp Hoa Luận
Sớ của ngài Gia Tường Cát Tạng, gồm ba quyển.
[8] Thành phố Tây An (tỉnh
Thiểm Tây) chính là tên gọi hiện thời của
Trường An. Thành phố này c̣n được gọi là
Kiểu, Kiểu Kinh, Tông Châu, Nội Sử, Đại An,
Hàm Dương, Thường An, Đại Hưng, Phụng
Nguyên, Kinh Triệu, Phụng Thành, Đẩu Thành, Tây Kinh, hoặc
chỉ gọi đơn giản là An, nằm ở trung tâm
vùng Quan Trung, đă có lịch sử hơn sáu ngàn năm, vốn
có tên là Phong Kiểu từ thời Tây Châu. Nơi này từng
là kinh đô của các triều đại Châu, Tần, Hán,
Tấn, Tiền Triệu, Tiền Tần, Hậu Tần,
Tây Ngụy, Bắc Châu, Tùy và Đường. Cái tên Tây An
phát xuất từ tên gọi Tây An Phủ được
đặt ra dưới triều Nguyên.
[9] Thành ngữ này dựa theo hai câu trong Nho
Lâm Ngoại Sử: “Thập
niên hàn song khổ độc thư, nhất cử thành danh
thiên hạ tri” (mười năm song lạnh chăm
đọc sánh, thi đậu thành danh thiên hạ quen). Theo sách
đó, hai câu thơ ấy lại dựa theo ư bài thơ Trúc
Ổ Thính Cầm của Thạch Tử Chương đời
Nguyên: “Thập niên hàn song tích
tuyết dư, độc đắc nhân gian vạn quyển
thư” (Mười năm song lạnh tuyết phủ
đầy, đọc khắp nhân gian muôn quyển sách). Do
vậy, “thập niên hàn song”
chỉ quá tŕnh học tập khổ luyện, không sao nhăng.
Cũng có thuyết giải thích câu trong Nho Lâm Ngoại Sử
lại xuất phát từ hai câu thơ trong bài Tỳ Bà Kư của
Cao Minh đời Nguyên: “Thập
niên hàn song vô nhân vấn, nhất cử thành danh thiên hạ
tri” (Mười năm song lạnh không ai hỏi, thi
đậu thành danh cả nước quen). Dù xuất phát từ
đâu, từ ngữ “thập
niên hàn song” đều có nghĩa là gắng công chuyên chú học
tập, không sao nhăng!
[10] Thúc tu (束脩) theo
nghĩa gốc là mười miếng thịt khô bó lại,
là một lễ vật thông dụng thời cổ.
Chương Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ có ghi: “Tử viết: Tự hành thúc tu
dĩ thượng, ngô vị thường vô hối” (Khổng
Tử nói: Từ lúc tiếp nhận thịt khô làm lễ vật
đến giờ, ta chưa bao giờ hối
hận). Ư nói: Từ khi khởi sự dạy học đến
nay, ta chưa bao giờ hối hận. Về sau, chữ “thúc tu” dùng theo nghĩa rộng
để chỉ lễ vật hay một món tiền do phụ
huynh biếu cho thầy dạy, xin cho con nhập học. Chữ
này c̣n được mở rộng ra để chỉ
lương bổng của thầy giáo, hoặc thời
điểm bắt đầu làm quan như truyện Diên
Đốc trong Hậu Hán Thư có câu: “Thả ngô tự thúc tu dĩ lai, vi nhân thần bất
hăm ư bất trung, vi nhân tử bất hăm ư bất hiếu”
(từ khi ta làm quan đến giờ, làm bề tôi người
khác chẳng đến nỗi bất trung, làm con người
khác chẳng đến nỗi bất hiếu). Thậm chí
mở rộng ra thành sự ước thúc, tu dưỡng
chính ḿnh, giữ trọn ḷng nghiêm túc, cung kính.
[11] Công Khải tức là loại chữ Khải
(một trong bốn cách viết chữ Hán), chữ viết
đầy đủ nét, rơ ràng, ngay ngắn, không viết tắt,
dễ đọc, nên c̣n gọi là Chân Thư, Chánh Thư. Khải
có nghĩa là khuôn mẫu, mực thước.
[12] Tiểu Khải tức là lối chữ
Khải viết chữ nhỏ. Thể loại này do Chung
Diêu sáng chế vào đời Ngụy (thời Tam Quốc).
Lối viết này thường được sử dụng
thể hiện sự trang trọng, mực thước, không quá nhỏ, không quá lớn, gây cảm
giác hài ḥa, đẹp đẽ. Thường được
mô tả là “nét chữ trông
như chim hồng bay
lượn trên mặt biển”. Khoảng cách giữa
các ḍng chữ phải cân đối, nét bút chặt chẽ,
bay bướm, nhưng mực thước. Cỡ chữ
phải đều nhau, rất khó viết,
nên mỗi khi tỏ ư tôn kính ai, thường viết bằng
chữ Tiểu Khải. Thuở ấy, người ta
đă bắt đầu viết chữ Hán bằng bút ch́,
bút máy, hoặc bút nguyên tử (bút Bic), hầu như không ai
sử dụng bút lông để viết nữa, nên lăo pháp
sư trịnh trọng dùng bút lông, viết thư theo lối
chữ cổ để tỏ ḷng cung kính, chân thành.